Trích Trong Luận Văn « Linh Đạo Phaolô Của Hội Dòng Mến Thánh Giá »(Tiếp theo)
(La Spiritualité Paulinienne Des Amantes De La Croix)
của Sr. Marie Thiên-Nga VÕ THỤY
Hội dòng Mến Thánh Giá Huế
d. Sự trung gian nhờ hy tế trên thập giá
Vai trò “trung gian” của Đức Kitô được tìm thấy trong thư thứ nhất gửi ông Timôthê (1 Tm 2,5): “Vì chỉ có một Thiên Chúa, và cũng chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã trở nên người phàm.” Theo bản tính tự nhiên, con người không thể tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Mối tương quan này cần phải được trung gian, và sự trung gian ấy được thể hiện một cách duy nhất nơi con người của Đức Giêsu Kitô, vì trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã hạ mình xuống ngang hàng với con người để có thể truyền đạt cho chúng ta thánh ý và ân sủng của Người. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã thích nghi (điều chỉnh để phù hợp, hạ mình) với con người.[1]
Đức Kitô là trung gian theo hai cách cụ thể. Trước hết, người trung gian xóa bỏ nguyên nhân của bất hòa và phục hồi tình bạn giữa hai bên; là trung gian, Đức Giêsu Kitô không chỉ là người truyền đạt thông tin (hoặc một luật sư), nhưng là Đấng trung gian của sự hòa giải, Đấng loại bỏ nguyên nhân gây thù nghịch. Thứ hai, Đức Kitô không chỉ là người trung gian đơn thuần mà còn là người hòa giải, đứng ra thương lượng sự hoà giải giữa hai bên. Người là Đấng trung gian theo nghĩa đặc biệt vì Người là “Thiên Chúa và con người” nhờ mầu nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa đã trở thành người.” Do đó, Đức Kitô là trung gian ngay trong chính bản thân Người.
Vai trò trung gian duy nhất này được nhấn mạnh trong thư gửi tín hữu Do Thái, nơi Đức Giêsu là Thượng Tế đời đời, nhờ hy lễ của Người, Người trở nên trung gian cho sự cứu chuộc chúng ta (Dt 3,1; 7,24; 9,12; 10,12). Người “đã vào cung thánh một lần là đủ, không phải với máu dê và máu bê, nhưng với chính máu của mình, để đem lại ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9,12). Trở lại lời Thánh Phaolô: “Vì chỉ có một Thiên Chúa, và cũng chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” (1 Tm 2,5-6). Ở đây, Thánh Phaolô muốn cho chúng ta thấy rằng vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất cho cả dân ngoại và dân Do Thái, thì cũng không thể có hai Đấng trung gian, mà chỉ có một, là Đức Kitô. Cách diễn đạt của Thánh Phaolô không loại trừ khả năng có những người trung gian khác, miễn là những trung gian ấy quy hướng vào Đức Kitô và hoàn toàn lệ thuộc nơi Người, chứ không tồn tại song song hay độc lập với Người. Thánh Phaolô cũng xác nhận sự tham dự của chúng ta vào công trình cứu độ của Đức Kitô và của Thiên Chúa, khi nói về hoạt động tông đồ của mình: “Chúng tôi là cộng tác viên của Thiên Chúa, còn anh em là cánh đồng của Thiên Chúa…” (1 Cr 3,9). Như thế, nếu mọi Kitô hữu đều được mời gọi tham gia vào hoạt động tông đồ, thì cũng được mời gọi trở thành cộng tác viên của Thiên Chúa. Nhiều người không hiểu được sự trung gian nhân loại đến mức họ tưởng rằng Đức Kitô là một vị chúa ghen tương về quyền trung gian của mình. Nhưng thực ra thì ngược lại. Đức Giêsu không nói: “Hãy để Ta làm một mình,” nhưng Người mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Người. Người kết hợp chúng ta với chính mình, như Người nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha…” (Ga 14,12). Người cũng nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15); và “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. Ai tha tội cho ai, thì người ấy được tha; ai cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22).
Thật vậy, để diễn tả tình trạng của người Kitô hữu, Thánh Phaolô đã sáng tạo ra những từ có cấu trúc đặc biệt: nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta “cùng được mai táng”(co-ensevelis) với Đức Kitô (Rm 6,4); nhờ đức tin, chúng ta đã “cùng sống lại”(co-ressuscité) với Người (Cl 2,13; 3,1; Ep 2,6). Thánh Phaolô, khi đã ý thức vai trò và vị trí của mình trong công cuộc cứu độ nhân loại, đã không ngần ngại viết cho tín hữu Cô-lô-xê: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24); và còn nói thêm: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập giá đối với thế gian” (Gl 6,14; 2,20).
Nhiều khía cạnh trong công trình cứu chuộc đặc biệt và trong việc canh tân lại công trình sáng tạo đã sa ngã được thực hiện bởi Đức Kitô: Đức Kitô là Đầu của toàn thể tạo vật (Cl 1, 15-18; x. Ep 1, 22-22); là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người khi Người sống lại và lên trời; là trung gian trong chương trình cứu độ qua mầu nhiệm Nhập Thể. Tất cả các khía cạnh của ơn cứu chuộc và của việc canh tân đều được tóm gọn trong thánh thi Kitô học của thánh Phaolô gửi tín hữu Philípphê (Pl 2, 6-11). Ở đó, “tầm mức rất rộng lớn của vai trò trung gian nơi Đức Kitô không nơi nào được biểu lộ rõ ràng bằng, mặc dù từ ‘người trung gian’ không hề được sử dụng ” [2] :
“Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hủy mình, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Người còn hạ mình, vâng phục cho đến chết, và chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban cho Người danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, để khi nghe danh thánh Giêsu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, phải bái quỳ, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’ mà tôn vinh Thiên Chúa Cha” (Pl 2,6-11).
Trong bài thánh thi Kitô học này, “vai trò trung gian của Đức Kitô quy chiếu đến toàn thể con người của Ngài. Nó khởi đi từ khía cạnh vĩnh cửu trong sự bình đẳng với Thiên Chúa Cha, tiếp tục với sự xuất hiện trần thế của con người Giêsu, đi sâu đến cái chết trên thập giá, và kết thúc trong cao điểm đối ứng là sự tôn vinh và quyền làm Chúa của Đức Kitô.”[3] Trong bản tính Thiên Chúa và nhân loại của mình, Đức Kitô đã hoàn tất ba chức vụ gắn liền với vai trò trung gian trong Cựu Ước, so với chức năng trung gian được dành riêng cho Ngài: Đức Kitô là ngôn sứ và là Ngôi Lời nhập thể, là tư tế và của lễ hy sinh, là vua của Israel và là Con Thiên Chúa. Trong các chức vụ ấy, chức năng hy tế giữ vai trò trung tâm: « Người lại còn tự hạ hơn nữa, vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá ». Với tư cách là ngôn sứ, Đức Kitô đã làm chứng về chính mình qua lời giảng; là vua, Ngài từ chối quyền lực thế gian; trong chức vụ hy tế, Đức Giêsu là Đấng trung gian đích thực giữa Thiên Chúa và con người. Chức năng này giữ vị trí trung tâm trong việc hòa giải Thiên Chúa với các tội nhân; công trình then chốt và quyết định của Đức Kitô trong giao ước mới chính là cái chết của Ngài để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi qua thập giá. Và chính trên thập giá, vai trò “ trung gian” của Đức Kitô được hoàn tất.
Tóm lại, trong vai trò “trung gian” trên thập giá, Đức Kitô đã hoàn thành kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Qua hy tế hiến thân, Người thực hiện công trình công chính hóa con người, hòa giải Thiên Chúa với nhân loại, và cứu con người khỏi tội lỗi. Mọi sự diễn ra qua thập giá. Và thập giá trở thành nơi Đức Kitô hoàn tất trọn vẹn sứ mạng cứu độ của Người. Do đó, “thập giá” của Đức Kitô chính là “tuyên bố quan trọng nhất” (chân lý tối hậu) trong đoạn văn của Phaolô mà chúng ta chưa đề cập. Chính theo một cách độc đáo và có thể nói là đặc biệt, thánh Phaolô đã đi đến xác tín rằng thập giá là trung tâm của mầu nhiệm cứu độ. Truyền thống gọi cách hiểu này là “thần học thập giá” của Phaolô. Trái với suy nghĩ của nhiều người, “thần học thập giá” không đơn thuần là một thần học về hy lễ.
[1] S. EDMONDSON, Calvin’s Christology, Cambridge University Press, 2004, p.38
[2] P. WELLS, De la croix à l’Evangile de la croix, Edition Excelsis, 2007, p. 187
[3] P. WELLS, De la croix à l’Evangile de la croix, Cité