Trích Trong Luận Văn « Linh Đạo Phaolô Của Hội Dòng Mến Thánh Giá »(Tiếp theo)
(La Spiritualité Paulinienne Des Amantes De La Croix)
của Sr. Marie Thiên-Nga VÕ THỤY
2. Sự phát triển của thần học về thập giá
Trong cái chết của Chúa Kitô trên thập giá, chúng ta thấy một hiệu quả sâu xa về sự tồn tại: sự phục sinh thiết lập Chúa Kitô trong quyền năng thiêng liêng của Ngài: Chúa Kitô phục sinh là điểm khởi đầu của công trình sáng tạo thiêng liêng mới. Cần có một sự hủy diệt trước đó vì thế giới cũ đã bị hư hỏng. Cái chết của Chúa Kitô sẽ mang trách nhiệm hủy diệt các yếu tố chống lại Thiên Chúa, xóa bỏ các chướng ngại vật đối với công trình sáng tạo mới. Có thể nói về sự biện minh và sự hòa giải.
- Cái chết của Chúa Kitô tác động đến chúng ta, được truyền đạt cho chúng ta đồng thời qua đức tin và phép rửa. Sự tham gia vào cái chết cũng đồng nghĩa với sự tham gia vào sự phục sinh: chúng ta trở thành những bản tính mới, những tạo vật được tái sinh.
- Bữa Tiệc Thánh (La Cène) được đưa vào trong viễn cảnh về nguyên nhân tồn tại của cái chết của Chúa Kitô. Bữa Tiệc Thánh kết nối các tín hữu với nhau, vì nó nối kết họ với thân thể của Chúa Kitô.
Trong Tân Ước, khẳng định “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của chúng ta” xuất hiện khoảng hai mươi lần. Chính Chúa Giêsu đã dâng hiến mạng sống mình như một giá chuộc cho nhiều người hoặc cho tất cả mọi người: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc 10, 45; x. Mt 20, 28). Lời nói về « bánh » : “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em ” (Lc 20,19b), loan báo sự kết thúc của một cuộc sống hoàn toàn dành cho người khác. Lời nói về « chén » còn rõ ràng hơn: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22, 20). Vì thế, Ngài đã cứu chuộc chúng ta khỏi lời nguyền rủa bằng máu của Ngài, đó là một cái giá rất lớn.
Đặc biệt, thánh Phaolô đã đưa ra một tổng hợp đáng chú ý về thần học của Thập Giá trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô (5, 14-21), nơi có hai khẳng định quan trọng: Một mặt, Chúa Kitô, mà Thiên Chúa đã đồng nhất với tội lỗi vì chúng ta (câu 21), đã chết cho tất cả mọi người (câu 14); mặt khác, Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Ngài bằng cách không tính đến tội lỗi của chúng ta (câu 18-20). Chính nhờ “sứ vụ hòa giải” này mà mọi ách nô lệ giờ đây đã được chuộc lại (x. 1 Cr 6, 20; 7, 23).
a. Sự cứu rỗi qua Thập Giá
Cái chết của Chúa Kitô “vì tội lỗi của chúng ta” tạo ra sự liên kết giữa cái chết của Ngài và tội lỗi: “chết vì tội lỗi của chúng ta” (Gl 1, 4; Rm 5, 8), “vì lỗi lầm của chúng ta” (Rm 4, 25), “chết vì chúng ta” (1Tx 5, 10; Rm 8, 32), “Ngài tự hiến mình vì chúng ta” (Ep 5, 2). Trong tuyên xưng đức tin của 1Cr 15, 3, “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của chúng ta theo Kinh Thánh”. Vậy nên, Chúa Kitô chết để tiêu diệt tình trạng tội lỗi. Ý tưởng này hàm ý sự giải thoát, cứu chuộc, và sự xá tội:
- Giải thoát (Rm 6, 7.14.16.19-20; 7, 23): Đối với thánh Phaolô, tội lỗi và cái chết đã biến chúng ta thành nô lệ: “chúng ta đã là nô lệ của tội lỗi”, “bị xích dưới luật của tội lỗi” (Rm 7, 23) và “tội lỗi thống trị chúng ta” (Rm 6, 14). Tự do xuất hiện trong quan điểm của thánh Phaolô dưới khía cạnh tích cực, là kết quả của công lý, của món quà, của đời sống Kitô giáo và do đó, từ này tương ứng với sự phục sinh. Cái chết giải thoát để đưa vào sự tự do. Người nô lệ được giải thoát khi được chuộc lại. Phaolô khẳng định rằng chúng ta đã được chuộc bởi Chúa Kitô.
- Cứu chuộc: “Vì chúng ta” có nghĩa là “để cứu chúng ta khỏi tội lỗi”; điều này được gọi là “cứu chuộc”. Từ “cứu chuộc” có nguồn gốc từ tiếng Latin “red-emptio”, có nghĩa là “mua lại”. Và trong tiếng Hy Lạp, “apo-lytrôsis”/ ἀπολύτρωσις, có nghĩa là “xuất phát từ « lytron/ λύτρον »: phương tiện giải thoát, tiền chuộc”. Những ẩn dụ này cho thấy cách thức hiệu quả của cái chết Đức Kitô trong tiến trình chuyển hóa từ thân phận nô lệ của tội lỗi sang sự tự do. Ta có thể nói đến một cuộc chuộc lại các Kitô hữu – một hành động đã phải trả bằng một giá rất đắt (1 Cr 6, 20; 7, 23). Đây chính là sự giải thoát khỏi Lề Luật (Gl 3, 13). Cái chết của Đức Kitô trên thập giá là sự hoàn tất của cuộc giải phóng này. “Cứu chuộc” theo nghĩa đen có nghĩa là « tiền chuộc », giá trị được trả để giải thoát một người nô lệ. Sự giải thoát này có thể mang ý nghĩa rộng hơn và chỉ mọi sự cứu chuộc hay cứu rỗi.
Trong Rm 3, 24-25: “Được nên công chính cách nhưng không, nhờ ân sủng của Người, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.”; sự cứu chuộc giải thoát chúng ta khỏi tình trạng mà chúng ta đã rơi vào vì tội lỗi của mình. Đức Kitô là “ơn cứu chuộc” của chúng ta, cũng như là sự khôn ngoan, sự công chính và sự thánh thiện của chúng ta; và chúng ta đạt được những ân huệ tích cực này nhờ được cứu chuộc, nghĩa là nhờ được chuyển từ tình trạng tội lỗi sang tình trạng công chính (1 Cr 1, 30). Và trong Ep 1, 7: « Trong Ngài, chúng ta tìm thấy sự cứu chuộc, nhờ máu của Ngài, sự tha thứ tội lỗi, theo sự phong phú của ân sủng Ngài » (x. Cl 1, 14). Các tác giả của Giáo hội đôi khi đã phóng đại ý nghĩa của ẩn dụ cứu chuộc này bằng cách làm tăng kịch tính của hành động liên quan đến cái chết của Chúa Kitô. Trong tư tưởng của thánh Phaolô, cái giá không được trả cho các Quyền lực, ma quái, hay thậm chí là Thiên Chúa. Vì tội lỗi chính là thứ đã trói buộc chúng ta trong tình trạng nô lệ, nên việc “giao dịch” sẽ được thực hiện với tội lỗi, nhưng thánh Phaolô lại giữ lại sự mơ hồ về vấn đề này. Có thể nghĩ rằng ý tưởng cốt lõi ở đây là sự giải phóng. Từ sự giải phóng, con người chuyển sang trạng thái bình thường trong việc thoát khỏi ách nô lệ. Bản chất con người thực sự đã được chuộc lại, vì cái chết của Chúa Kitô đã giải thoát một nhân loại khỏi tội lỗi, một nhân loại trở thành nền tảng cho một nhân loại mới, được giải thoát và chuộc lại để thuộc về Chúa Kitô.
- Sự xá tội: Sự chuộc tội qua máu của Chúa Giêsu là một công thức để chúng ta nói rằng Chúa Kitô “đã chết vì chúng ta”. “Expiare” trong tiếng Latin có nghĩa là “tẩy rửa bằng cách xóa bỏ lỗi lầm điều tách biệt con người khỏi Thiên Chúa”, « làm cho một người, một vật, hoặc một địa điểm trở nên dễ chịu đối với các thần linh ». Tiếng Hy Lạp “hilasmos/ ἱλασμός” xuất phát từ “hilaskomai/ ἱλάσκομαι” có nghĩa là “tha thứ”, “thể hiện sự ưu ái, thân thiện”; và trong tiếng Do-thái “kipper/כִּפֵּר ” mang ý nghĩa “tha thứ, che đậy”. Trong nghĩa tôn giáo (Kitô giáo), đó là hành động miễn phí mà Thiên Chúa chuộc tội cho chúng ta qua máu của Chúa Kitô.
- Tha thứ: Sáng kiến tha thứ xuất phát từ Thiên Chúa và sự tha thứ được ban cho chúng ta nhờ cái chết của Chúa Kitô. Khi Ngài tha thứ và cứu rỗi, Thiên Chúa làm điều đó miễn phí. Ngài không đặt ra bất kỳ điều kiện nào. Ngài không yêu cầu gì cả, không tiền chuộc, không đền bù, không hy sinh chuộc tội, không cống phẩm xoa dịu, không hình phạt thay thế. Tất cả những điều này đều không phải là điều Ngài quan tâm. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta lắng nghe, mở lòng ra với lời Ngài, để cho lời Ngài cảm hóa, chuyển hóa và dẫn dắt chúng ta. Thiên Chúa luôn tìm cách chinh phục con tim, lý trí và ý chí của con người, Ngài kêu gọi và thuyết phục họ. Để thực hiện điều ấy, Thiên Chúa khơi dậy những chứng nhân, các ngôn sứ hoặc những bậc hiền triết, là những người nhân danh Ngài mà lên tiếng. Từng bước một, trong sự kiên nhẫn và khoan dung, Thiên Chúa hành động trong lòng nhân loại để dẫn dắt họ tiến bước, đến gần Ngài hơn, và để thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
- Giá trị hy tế đền tội nơi cái chết của Đức Kitô : Đối với thánh Phaolô, mối liên hệ giữa cái chết của Đức Kitô và phụng vụ tế lễ trở nên càng rõ nét hơn. Đoạn văn nổi bật nhất là Rm 3, 23-26: “Mọi người đều đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa. Nhưng họ được trở nên công chính cách nhưng không nhờ ân sủng của Người, do công trình cứu chuộc nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã định cho Người, nhờ máu của Người và qua lòng tin, trở nên khí cụ mang lại ơn xá tội. Như thế, Người chứng tỏ sự công chính của mình, vì đã để mặc tội lỗi xảy ra trước kia trong thời Người kiên nhẫn chịu đựng. Và cũng là để tỏ bày sự công chính của Người trong hiện tại, nhằm cho thấy rằng chính Người là Đấng công chính, khi làm cho ai tin vào Đức Giêsu được nên công chính.” Giá trị của máu Đức Kitô giải thích cái chết của Người như một hình thức hy tế thực sự. Ý nghĩa hy tế ở đây không còn là ẩn dụ, nhưng là cái chết thực sự – như Thánh Phaolô khẳng định rõ trong Gl 2,20 và Rm 8,34 – nơi Đức Kitô được trình bày như là tư tế đang hiến dâng hy lễ. Theo lý thuyết “đền tội thay” (expiation substitutive), Thiên Chúa cứu độ chúng ta nhờ Thập Giá, bởi vì Đức Kitô hiến mạng sống mình làm hy lễ để thay thế cho tội lỗi của chúng ta.
Sự cứu rỗi là khái niệm tổng quát nhất mà sứ điệp của thánh Phaolô xác định; thuật ngữ “cứu rỗi” được dùng trong một số tình huống khi Ngài xác định Kitô giáo đối diện với thế giới không phải Kitô giáo. Ở đây sự cứu chuộc dành cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giai cấp xã hội, giới tính, v.v… “Không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam và nữ” (Gl 3, 28) hoặc “ Thưa anh em, lòng tôi hằng ước ao và tôi cầu xin Thiên Chúa cho họ được ơn cứu độ.” (Rm 10, 1; xem 2Cr 6, 2; 7, 10; Ep 1, 13; Pl 1, 28; 2, 12; 1Tx 5, 9; 2Tx 2, 13).
(Còn tiếp)