Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba sau Chúa Nhật II Phục Sinh – Trong Chúa Giêsu, Chúng Ta Cảm Nếm Được Thiên Đàng

(Cv 4:32-37; Ga 3:7b-15)

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về kiểu mẫu của một cộng đoàn [gia đình hay giáo xứ] lý tưởng và tuyệt hảo. Chúng ta có thể nói rằng, đây là hình ảnh của thiên đàng nơi chỉ có tình yêu ngự trị. Đâu là chìa khoá làm cho cộng đoàn hay gia đình hạnh phúc? Chúng ta tìm thấy những yếu tố cần thiết sau đây:

Thứ nhất, hiệp nhất giữa những khác biệt: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Bài đọc 1 cho chúng ta thấy rõ, các tín hữu thời đó rất đông, nhưng họ chỉ có một lòng một ý. Điều này xảy ra vì không ai nghĩ cho riêng mình mà chỉ nghĩ cho người khác; đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Khi mọi người sống chung với nhau chỉ có một mục đích để vươn tới, thì sẽ có hiệp nhất. Nhưng điều này không dễ dàng cho chúng ta ngày hôm nay khi chủ nghĩa cá nhân đang chiếm ưu thế và có ảnh hưởng lớn trên lối sống và việc làm của chúng ta. Chúng ta nghĩ về lợi ích của mình nhiều hơn là lợi ích chung. Vì vậy, chúng ta nhìn sự khác biệt của người khác như những “mối đe doạ” cho lợi ích cá nhân hơn là những điều để bổ sung cho những khuyết điểm của chúng ta. Để sống hạnh phúc, hãy biết đón nhận sự khác biệt của người khác như những món quà của Thiên Chúa để bổ sung cho những khiếm khuyết của chúng ta và đồng thời nghĩ về hạnh phúc của người khác hơn là của chính mình.

Thứ hai, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng” (Cv 4:33). Chúa Thánh Thần là Đấng mang lại sự canh tân của vạn vật, mang lại sức sống mới. Yếu tố thứ hai liên quan đến việc để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn chúng ta mỗi ngày để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh qua đời sống mới của chúng ta, đó là một đời sống chết đi cho tội lỗi để sống lại trong một đời sống yêu thương và tha thứ trong Đức Kitô.

Thứ ba, sống đời sống chia sẻ: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:34-35). Một trong những điều làm cho đời sống chung hạnh phúc là khả năng trao ban và chia sẻ. Khi một người để cho anh chị em của mình túng thiếu trong khi mình sung túc giàu sang, chắc chắn con tim của người đó không có chút tình thương nào. Chỉ những người sống đời yêu thương mới có khả năng trao ban cho những người khác những gì mình có và mình là. Như vậy, khả năng trao ban [những gì mình có và những gì mình là chứ không phải những gì dư thừa] là thước đo tình yêu của một người dành cho anh chị em của mình. Tình yêu làm cho “người yêu” trao ban mọi sự cho “người được yêu.” Đây chính là tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta được mời gọi bắt chước mỗi ngày. Đừng để anh chị em của chúng ta thiếu thốn khi chúng ta no đủ.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô về việc “sinh ra bởi Thần Khí.” Như chúng ta biết, Nicôđêmô đã không hiểu điều Chúa Giêsu nói vì ông hiểu theo nghĩa của văn tự, còn Chúa Giêsu nói theo nghĩa hình tượng. Trung tâm của Bài Tin Mừng hôm nay là việc Chúa Giêsu giải thích cho Nicôđêmô về ý nghĩa của việc sinh ra bởi Thần Khí. Thật vậy, Thánh Gioan nêu lên cho chúng ta hình ảnh của những người sinh ra bởi Thần Khí họ sẽ giống như gió: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3:8). Điều này không có nghĩa là họ thay đổi hướng đi như gió, nhưng có ý nói là những người sinh ra bởi Thần Khí sẽ được “tự do khỏi tội lỗi và tự do cho Thiên Chúa.” Nói cách khác, những người được sinh ra bởi Thần Khí là những người diễn tả tình yêu Thiên Chúa cách trung thực mà không để cho cái bóng của mình che khuất tình yêu đó.

Khi thấy Nicôđêmô không hiểu điều Ngài nói, Chúa Giêsu liền giải thích cho ông. Nhưng lời giải thích của Ngài đã đưa Nicôđêmô và chúng ta sang một đề tài khác, đó là đề tài làm chứng trong tương quan với Chúa Thành Thần. Chúng ta có thể nhận ra ba phần trong lời giải thích của Chúa Giêsu: phần 1 (Ga 3:11) nói về nền tảng của lời chứng và sự không đón nhận của Nicôđêmô và các lãnh đạo người Do Thái: “Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi”; phần 2 (Ga 3:12-13) trình bày Chúa Giêsu là suối nguồn duy nhất để biết về Nước Trời: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được? Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”; phần 3 (Ga 14-15) ám chỉ việc sinh ra bởi Thần Khí chỉ được mạc khải khi Ngài được giương cao trên thập giá: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”

Trong ba phần từ lời giải thích của Chúa Giêsu, điều đáng để chúng ta suy gẫm đó là lời khẳng định của Ngài: rằng chỉ nơi Ngài chúng ta mới tìm được những “kiến thức cần thiết về Thiên Đàng.” Ai trong chúng ta cũng muốn lên Thiên Đàng và chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để đạt đến điều đó. Nhưng nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta lại đi tìm không đúng chỗ. Chúng ta đi tìm trong sách vở để có được những tư tưởng vĩ đại về Thiên Đàng. Nhưng rồi khi trở về với thực tế của cuộc sống, thay vì sống với nhau và làm chứng cho nhau về Thiên Đàng qua đời sống yêu thương và tha thứ, chúng ta làm tổn thương nhau qua những lời ăn tiếng nói và cử chỉ không phải “của Thiên Đàng,” không phải của những người sinh ra bởi Thần Khí, mà là của những người sinh ra bởi thân xác. Để biết được Thiên Đàng là gì, hãy đến với Chúa Giêsu. Những ai có Chúa Giêsu trong đời sẽ cảm nếm được Thiên Đàng là gì và có khả năng biến nơi mình sống trở nên Thiên Đàng cho người khác nếm cảm. Một gia đình hay một cộng đoàn tu trì chỉ trở nên Thiên Đàng khi mỗi thành viên có Chúa trong con tim, và khi có Chúa Giêsu là vị trí trung tâm trong chính gia đình hay cộng đoàn của mình.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB