(Cv 5:34-42; Ga 6:1-15)
Bài đọc 1 tiếp tục trình bày cho chúng ta cuộc họp của Thượng Hội Đồng để xét xử Phêrô và các môn đệ. Điều làm chúng ta suy gẫm là lời nói của Gamaliên và sự vui mừng của các Tông Đồ vì được chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Trong hình ảnh của Gamaliên, “một kinh sư được toàn dân kính trọng” (Cv 5:34), chúng ta thấy Thiên Chúa ban cho ngay cả những người chống đối sự khôn ngoan để bảo vệ những chứng nhân của Ngài. Lời nói của ông đã thuyết phục Thượng Hội Đồng. Những lời đáng suy gẫm của ông là: “Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa” (Cv 5:38-39). Trong những lời này, chúng ta đọc thấy một sự thật là: sự gì đến từ Thiên Chúa sẽ trường tồn, còn những gì đến từ con người sẽ chóng qua như cây cỏ; những gì đến từ Thiên Chúa thì dù con người có muốn phá huỷ cũng không thể, còn những gì do người phàm thì tự nó sẽ bị diệt vong. Những chi tiết này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta không cần phải ghen tỵ và so sánh với sự hưng thịnh của người khác, vì nếu điều đó đến từ Thiên Chúa thì chúng ta không bao giờ có thể dập tắt, còn nếu là của người phàm, thì nó sẽ tự sụp đổ, chúng ta không cần phải bận tâm.
Chi tiết thứ hai chúng ta có thể suy gẫm là thái độ của các Tông Đồ khi bị ngược đãi vì danh Chúa Giêsu: “Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:40-41). Các Tông Đồ vui không phải vì bị đánh đòn hoặc cấm giảng dạy, nhưng hân hoan vì cảm thấy mình được coi là những người xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Chính vì niềm vui này mà các Tông Đồ tiếp tục “vâng phục Thiên Chúa hơn người phàm,” nên “mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu” (Cv 5:42). Chi tiết này mời gọi chúng ta nhìn lại thái độ của mình khi chúng ta đối diện với đau khổ và những thử thách trong cuộc sống. Những giây phút ấy, chúng ta có thấy mình gần Chúa không? Chúng ta có cảm thấy hãnh diện vì được xem là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu không? Hay chúng ta cảm thấy xấu hổ khi chịu đau khổ vì danh Ngài?
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bài giảng của Chúa Giêsu về bánh hằng sống (Ga 6:1-71). Đây là một trong những chương dài trong Tin Mừng Thánh Gioan. Bài giảng này có sự tương đồng với những sự kiện được Thánh Máccô thuật lại trong 6:30-54 và 8:11-33. Những sự kiện đó bao gồm: (1) hoá bánh cho năm ngàn người ăn (Ga 6:1-15; Mc 6:30-44); (2) Chúa Giêsu đi trên biển (Ga 6:16-24; Mc 6:45-54); (3) đòi một dấu lạ (Ga 6:25-34; Mc 8:11-13); (4) bình luận về bánh hằng sống (Ga 6:35-59; Mc 8:14-21); (5) lời tuyên xưng của Phêrô (Ga 6:60-69; Mc 8:27-30); (6) [tiên báo về] cuộc thương khó (Ga 6:70-71; Mc 8:31-33). Những hình ảnh [biểu tượng] về Chúa Giêsu như Đấng cung cấp “nước hằng sống” trong chương 4 và bánh từ trời được phát triển cùng với nền Kitô học của Thánh Gioan như một vị vua – ngôn sứ theo Môsê. Đối với thánh sử, toàn bộ câu chuyện về bánh hằng sống trở thành một cuộc đối diện khác giữa đám đông không tin và Đấng đến từ trời với lời ban sự sống. Cấu trúc của bài Tin Mừng hôm nay như sau: (1) bối cảnh xa (Ga 6:1-4); (2) bối cảnh gần: Chúa Giêsu đối thoại với các môn đệ (Ga 6:5-10); (3) Chúa Giêsu thực hiện phép lạ (Ga 6:11-13); (4) phản ứng của dân chúng và hành động của Chúa Giêsu sau phép lạ (Ga 6:14-15). Chúng ta cùng nhau suy gẫm trên những điểm mà cấu trúc Tin Mừng đã gợi ý cho chúng ta.
Trước tiên, chúng ta cần lưu ý rằng Thánh Gioan đã nới rộng phần giới thiệu bằng việc thêm vào đó những chi tiết sau: (1) một cột móc không rõ ràng về thời gian [“sau những điều này”]; (2) một nơi chốn cụ thể [“bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria.”]; (3) động lực của đám đông tìm đến Chúa Giêsu [“Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm.”]; (4) thời điểm quy chiếu [“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái.”]. Trong phần này, điều đáng để chúng ta suy gẫm là động lực của đám đông đến với Chúa Giêsu. Thánh Gioan trình bày rõ ràng cho chúng ta là đám đông đến với Chúa Giêsu vì họ thấy ‘những dấu lạ người làm cho những kẻ đau ốm,’ nói cách khác là họ nhìn thấy Chúa Giêsu chữa lành những kẻ đau ốm. Như chúng ta biết, một trong những hành động quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan là ‘thấy.’ Tuy nhiên, ‘thấy’ chỉ mới là bước đầu của tin. Đám đông đến với Chúa Giêsu chỉ vì ‘thấy’ Ngài thực hiện những dấu lạ chứ chưa biết và tin Ngài. Điều này được chỉ rõ trong phần kết của bài Tin Mừng, đó là họ chỉ nhận ra Ngài như một vị ‘ngôn sứ’ giống như Môsê, người đã cho dân Israel bánh ăn trong sa mạc. Chúng ta cũng đến với Chúa mỗi ngày [hoặc mỗi tuần], nhưng động lực của chúng ta là gì? Nhiều người trong chúng ta đã ‘thấy’ nhiều dấu lạ Chúa thực hiện mỗi ngày trong cuộc đời của mình [hay của người thân], nhưng chúng ta đã đóng cửa lòng mình lại, chúng ta không nhận ra Ngài và đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào tay Ngài. Chúng ta chỉ đến với Chúa chỉ vì chúng ta cần những nhu cầu của mình được đáp ứng, chứ chúng ta không đến với Ngài vì tin yêu Ngài.
Bối cảnh gần của phép lạ là một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, cụ thể là với Philipphê và Anrê. Chúng ta viết lại cuộc đối thoại này như sau:
Chúa Giêsu [“Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê]: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” [“Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi].
Ông Philípphê: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Anrê: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”
Chúa Giêsu: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” [Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn].
Trong phần phép lạ, chúng ta đọc thấy như sau: “Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ‘Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.’ Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga 6:11-13). Điều đáng để chúng ta lưu ý là sự tương phản và tiếp nối giữa hành động của Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, chính Chúa Giêus là người phân phát cho dân chúng bánh và cá sau khi đã dâng lời tạ ơn. Các môn đệ chỉ là những người đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã phân phát. Điều này khác với Tin Mừng Nhất lãm là Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ đi phân phát cho dân chúng và cũng chính các môn đệ đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã bẻ ra và các ông phân phát. Chúng ta rút ra từ những chi tiết này điều để suy gẫm là: Chúa Giêsu luôn là Người trao ban chính mình và mọi sự cho chúng ta. Về phần chúng ta, chúng ta chỉ cộng tác với Ngài trong việc phân phát những gì của Chúa Giêsu đã trao vào tay chúng ta cho anh chị em của mình. Sứ vụ của chúng ta là sự tiếp nối của sứ vụ Chúa Giêsu. Những gì chúng ta trao ban đều thuộc về Chúa Giêsu. Chỉ khi hiểu được điều này, sứ vụ của chúng ta mới sinh được nhiều hoa trái để mọi người được ăn no nê mà vẫn còn dư thừa.
Bài Tin Mừng kết thúc với phản ứng của đám đông sau khi nhìn thấy dấu lạ là: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: ‘Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!’” (Ga 6:14). Đứng trước sự hiểu lầm về chân tính của mình, Chúa Giêsu liền tránh mặt: “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6:15). Đứng trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, dân chúng chỉ dừng lại ở những gì “thuộc về thân xác, thuộc về đất.” Vì vậy, họ không hiểu được thực tại trên trời mà qua dấu lạ Chúa Giêsu ám chỉ đến. Qua dấu lạ, họ chỉ dừng lại ở việc tuyên xưng Chúa Giêsu là một vị ngôn sứ như Môsê, người đã cho họ bánh ăn trong sa mạc. Họ không thể đạt đến việc tuyên nhận rằng, Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là Con Thiên Chúa. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài của sự kiện để rồi không thể đọc và hiểu được điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Hãy vượt qua những gì mà con mắt thể lý có thể nhìn, và nhìn với con mắt đức tin, chúng ta mới hiểu được những thực tại của Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB