(2 Cr 5:14-21; Mt 5:33-37)
Điều gì thôi thúc chúng ta sống và làm việc? Ai trong chúng ta cũng có động lực sống và làm việc của riêng mình. Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô nói động lực duy nhất của cuộc sống ngài là “tình yêu Đức Kitô” (2 Cr 5:14). Thánh Phaolô nhận ra rằng vì yêu mà Chúa Giêsu đã chết cho mọi người. Nên chúng ta cũng được mời gọi chết cho nhau: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:15). Khi không còn sống cho chính mình, chúng ta không còn sở hữu chính mình, nhưng chính Đức Kitô sở hữu chúng ta.
Thánh Phaolô nói đến con người cũ và con người mới, con người chết với và sống cho Đức Kitô và con người sống theo xác thịt. Con người cũ [sống theo xác thịt] là con người sống theo “quan điểm loài người” (2 Cr 5:16), sống theo khuynh hướng tự nhiên. Còn con người mới [đã chết và sống cho Đức Kitô] không sống theo khuynh hướng con người, nhưng trở nên thụ tạo mới. Thụ tạo mới này là những người được trao cho sứ vụ hoà giải (x. 2 Cr 5:18). Họ là “sứ giả Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy” (2 Cr 5:20). Để trở nên sứ giả của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi làm hoà với Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta được mời gọi sống thật với ơn gọi và căn tính của mình. Sống thật và nói thật là điều kiện quan trọng của những sứ giả Đức Kitô, Đấng là Sự Thật.
Thường khi có chuyện quan trọng và muốn người khác tin mình, chúng ta thề. Thề hứa là khẳng định chúng ta sẽ thực hiện một điều gì đó cho người khác. Chúng ta có thể thề hứa với Chúa, cũng có thể với nhau. Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài về vấn đề thề hứa. Điều này liên quan đến điều răn thứ 8 khi họ làm chứng về một điều gì đó. Để tránh việc làm chứng dối nên luật buộc những người làm chứng phải thề. Nhìn từ khía cạnh này, phía sau vấn nạn thề hứa là khao khát của con người muốn biết sự thật và cám dỗ nói dối, nói không đúng sự thật.
Bản dịch bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay không có chữ “một lần nữa.” Chữ này quan trọng vì nó ám chỉ về sự bắt đầu phần dạy mới. Tức là chúng ta đi được nửa chặng đường những lời dạy của Chúa Giêsu về tiêu chuẩn của luật mới cao hơn luật cũ trong bải giảng trên núi. Sau công thức giới thiệu là câu trích từ Cựu Ước (x. Lv 19:12; Ds 30:3). Hình như có một sự căng thẳng hợp lý giữa phần đầu “chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề” [điều này ám chỉ rằng việc thề hứa có xảy ra] (Mt 5:22) và “đừng thề chi cả” (Mt 5:34). Lời dạy của Chúa Giêsu, “còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả,” được công thức hoá thành một mệnh lệnh tiêu cựu [không được], và những ví dụ kế tiếp trong câu 34b, 35, 36 (trích từ Is 66:1 và Tv 48:2) là những công thức thề hứa, và những công thức này tránh dùng tên Thiên Chúa [giới răn thứ hai], điều mà người Do Thái đạo đức hết sức tránh: “Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” Nhưng trong việc tránh dùng tên Thiên Chúa, thì một cách nào đó mở đường cho ý hướng không thành thật vì Thiên Chúa đã bị loại ra khỏi bức tranh của những lời thề. Chúa Giêsu ám chỉ trong (câu 36) rằng không có gì trong công trình sáng tạo mà không đến từ Thiên Chúa và lệ thuộc vào Ngài, và như thế phản chiếu vinh quang của Ngài như Đấng Tạo Hoá. Mỗi người chúng ta cũng đến từ Thiên Chúa, vậy cuộc sống của chúng ta đã phản chiếu vinh quang của Ngài chưa?
Câu kết, “nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có,’ ‘không thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:37), là câu quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một mệnh lệnh mang tính tích cực [nên làm] liên quan đến vấn đề ăn nói, để cân bằng mệnh lệnh tiêu cực trong câu 34. Trong Tân Ước, chỉ có đoạn Mt 23:16-22 và Gc 5:12 có ý nghĩa song song với đoạn Tin Mừng hôm nay; còn đoạn 2 Cr 1:17-19 tuyên xưng rằng Chúa Giêsu là tiếng “có” [hoặc “vâng”] muôn đời của Thiên Chúa cho chúng ta. Vấn đề mà những đoạn này nói đến là vấn đền ngôn ngữ. Qua những lời được trích trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chống lại sự giả hình, nguỵ biện và tầm thường hoá mang tính chuyên nghiệp về ngôn ngữ trong cuộc sống và thay thế chúng với tư tưởng về sự đơn sơ và ngay thẳng trong lời ăn tiếng nói. Tư tưởng chống lại này không nhằm mục đích chống lại lối nói văn chương và dùng dụ ngôn hoặc những công thức thề hứa, bao lâu những điều này mang tính trung thực. Như chúng ta biết, trong những lời này, Chúa Giêsu sử dụng Mười Điều Răn. Tuy nhiên, Mười Điều Răn không nói gì đến việc thề hứa, nhưng có nói trong điều răn thứ hai là: “Ngươi không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ,” và trong điều răn thứ tám là: “Ngươi không được làm chứng gian.” Qua hai điều răn này, Chúa Giêsu ngụ ý rằng ngươi phải luôn nói thật, nhất là trong những vấn đề quan trọng liên quan đến Thiên Chúa và tha nhân. Chúa Giêsu kết hợp hai giới răn này với nhau bằng cách nói rằng ngươi không được thề bởi tên của Thiên Chúa hoặc những gì thay thế cho tên của Ngài; ngươi chỉ đơn sơ nói sự thật. Đây là lời nhắc nhở cho chúng ta về sự thành thật trong lời ăn tiếng nói. Nhiều người trong chúng ta biện minh rằng: tôi chỉ nói “dối tí thôi,” không hại đến người nào. Chúng ta phải nhớ nguyên tắc trong luân lý là: mục đích không thể biện minh cho phương tiện. Dù mục đích là “không hại đến ai,” nhưng phương tiện là “nói dối.” Tự bản chất, “nói đối” là xấu, nên dù mục đích có tốt thế nào đi nữa thì cũng không thể làm cho việc nói dối nên tốt [không thể làm cho “dối trá” trở thành “sự thật”]. Hãy sống theo lời khuyên của Chúa Giêsu: sống đơn sơ! Có thì nói có, không thì nói không. Thêm lời đặt chuyện là do ma quỷ mà ra.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB