(Ed 34,11-16; Rm 5:5b-11; Lc 15:3-7)
Rất nhiều người công giáo sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Các ngày thứ sáu, nhất là thứ sáu đầu tháng, được dành riêng để tôn vinh Thánh Tâm Chúa Giêsu. Như chúng ta biết, sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu tập trung vào trái tim “thể lý” của Chúa Giêsu như hình ảnh của tình yêu cứu độ của Ngài. Mặc dù theo truyền thống, lòng sùng kính được bắt đầu khoảng năm 1000, nhưng theo đúng lịch sử, việc sùng kính khởi đầu trong thời gian của những nhà thần bí nổi tiếng của Giáo Hội (Thánh Anselm và Thánh Bernard] giữa năm 1050 và 1150. Vào thời trung cổ, vì nhấn mạnh đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu, và vì nỗ lực của Thánh Bonaventure và Thánh Gertrude Cả, lòng sùng kính được lan truyền như phương thế để tôn thờ mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lòng sùng kính được khuyến khích bởi những vị thánh lớn như thánh Albert cả, Thánh Catherine thành Siena, Thánh Phanxicô Salêsiô cũng như các dòng tu lớn, như dòng Benedictines, dòng Đa Minh. Tuy nhiên, vị thánh được ghi danh như người truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là Thánh Margaret Maria Alacoque (1647-1690). Sau khi thánh nhân nhận được thị kiến về Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh nhân bị bề trên quở trách vì nghĩ rằng thánh nhân bị bệnh hoang tưởng. Khi thánh nhân bị bệnh, bề trên nói sẽ tin vào thị kiến nếu thánh nhân được chữa lành. Nhờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh nhân được chữa lành và được bề trên cho phép để truyền bá lòng sùng kính. Thánh Anphongsô bị ảnh hưởng lớn bởi Thánh Margaret Maria về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong thời hiện đại, Đức Thánh Cha Piô IX đã thiết lập lễ mừng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu vào năm 1856. Năm 1928, Đức Thánh Cha Piô XI viết thông điệp Miserentissimus Redemptor về phạt tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Năm 1956, Đức Thánh Cha Piô XII viết thông điệp Haurietis Aquas về bản chất của lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Khi nói đến Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta nói đến điều gì? Là những người tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta có cuộc sống đầy yêu thương không? Giờ đây, chúng ta để lời Chúa giúp chúng ta thấy ý nghĩa của việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu để nỗ lực sống trọn vẹn cho Thánh Tâm Chúa.
Bài đọc 1 trích từ sách Ngôn Sứ Êdêkien. Ngôn sứ nói về một viễn cảnh tươi đẹp cho dân Israel bị đi lưu đày. Viễn cảnh đó là việc họ được chính Thiên Chúa là Đấng chăn dắt như chủ chiên chăn dắt đàn chiên. Là mục tử, Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều sau đây cho dân: Ngài sẽ chăm sóc, thân hành kiểm điểm, kéo chiên ra khỏi những nơi chúng đã bị tản mác, đem chiên ra khỏi các dân, tập hợp chiên lại từ các nước và đưa vào đất của chúng, chăn dắt chiên trên núi Israel, và cho chiên nằm nghỉ trong chuồng êm ái. Những cử chỉ này là những nét đặc trưng được tìm thấy nơi tình yêu của Thiên Chúa được biểu hiện nơi Chúa Giêsu. Thiên Chúa vẫn biểu lộ tình yêu này cho chúng ta mỗi ngày. Ngài chăm sóc, tập hợp và kéo chúng ta ra khỏi những nguy hiểm. Liệu chúng ta có đáp lại tình yêu của Ngài không?
Phần cuối của bài đọc 1 ám chỉ về hình ảnh của người chăn chiên được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:15-16). Những lời này mô tả một người chăn chiên sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để đi tìm con chiên lạc. Tấm lòng của người mục tử luôn dành cho những con chiên bị thương và bệnh tật. Nhưng không phải thế mà Ngài bỏ quên những con chiên khoẻ mạnh. Đối với những con chiên khoẻ mạnh, Ngài canh chừng kẻo chúng đi lạc.
Thánh Phaolô nói đến việc Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta. Ngài làm thế vì Ngài biết chúng ta được dựng nên từ bụi đất. Tự mình, chúng ta không có sức làm được gì. Tình yêu mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta là thứ tình yêu tuyệt đối, nhưng không. Tình yêu đó được thể hiện qua Đức Kitô. Ngài đã chết vì chúng ta, những người vô đạo (x. Rm 5:6). Thánh Phaolô nói về tình yêu này như sau: “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi: đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Đây là tình yêu chúng ta chiêm ngắm khi đến với Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi để bắt chước Ngài hầu yêu thương anh em của mình ngay cả khi họ xúc phạm đến chúng ta. Thánh Phaolô tiếp lời: “Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:9-11). Những lời này mời gọi chúng ta xem xét lại tình yêu dành cho Đức Giêsu Kitô. Ngài đã chết để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài chỉ mong ước nơi chúng ta một điều, đó là “có Thiên Chúa là niềm tự hào.” Chúng ta có thật sự tự hào vì có Thiên Chúa không?
Đoạn Tin Mừng Thánh Luca hôm nay được xem là một trong những đoạn riêng biệt của Tin Mừng. Hình ảnh Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc được Ngôn Sứ Êdêkien nói đến trong bài đọc 1 được Chúa Giêsu sử dụng để nói với những người Pharisêu và các kinh sư. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay là lời đáp trả của Chúa Giêsu cho những người tố cáo Ngài là “bạn của phường tội lỗi và thu thuế.” Có bao giờ chúng ta bị kết án là “bạn của những người tội lỗi chưa?” Nếu có, đừng nản chí. Hãy nhìn vào Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay và tiếp tục làm bạn với họ, nhưng không trở thành một người trong họ, mà đưa họ về với đàn chiên của Chúa. Dụ ngôn chứa đựng lối viết biểu tượng. Chúa Giêsu bắt đầu với việc sử dụng hình ảnh người chăn chiên bỏ chín mươi chín con để đi tìm một con chiên lạc (Lc 15:4) và kết với hình ảnh cả triều thần trên trời sẽ vui mừng vì “một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7). Ở đây, Chúa Giêsu nói đến tình yêu của Ngài dành cho những người tội lỗi, những con chiên lạc. Chúng ta cần lưu ý rằng: nhiều người hiểu sai câu nói của Chúa Giêsu về việc “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Thông thường, chúng ta hiểu câu trên là một người sám hối thì có nhiều niềm vui hơn là 99 người “không phải ăn năn sám hối.” Nhưng khi để ý đến dụ ngôn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy là 99 con chiên kia không đi lạc, nên họ “không cần phải ăn năn sám hối.” Chỉ có con chiên lạc mới cần. Như vậy, câu này không mang nghĩa so sánh, nhưng có ý nói đến mối dây liên kết không thể tách rời giữa “ăn năn sám hối” và “niềm vui ở trên trời.” Nói cụ thể hơn, ăn năn sám hối là yếu tố tiên quyết để tìm thấy niềm vui. Hơn nữa, qua những lời này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: hạnh phúc địch thật chủ yếu hệ tại việc sẵn sàng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa trong việc mang ơn cứu độ của Ngài cho người khác.
Phần ở giữa diễn tả niềm vui của người mục tử khi tìm được con chiên lạc: “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’” (Lc 15:5-6). Niềm vui tìm được con chiên lạc phải được chia sẻ. Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta chia sẻ niềm vui khi một người anh chị em chúng ta lạc lối trở về. Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta không mấy hạnh phúc khi điều đó xảy ra, nhất là khi thấy những người chúng ta không ưa không thích trở về và được nhiều người khen ngợi. Khi chúng ta không cùng Thiên Chúa chia vui với những người lạc lối trở về, chúng ta tự loại mình ra khỏi niềm vui của Ngài. Tình yêu đích thực mà chúng ta tìm thấy nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tha thứ, là tình yêu hy sinh để mang niềm vui ơn cứu độ đến cho người khác. Chúng ta có sẵn sàng để yêu với một tình yêu như thế không?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB