Đón nhận Tin Mừng từ người nghèo
Người ta có thể nhận được gì từ những người sống trong tình trạng bấp bênh cùng cực, nếu không muốn nói là khốn khổ? Liệu có thể đón nhận Tin Mừng từ họ không? Chúng ta thường nghe nói rằng: “Người nghèo loan báo Tin Mừng cho chúng ta”. Nhưng chính xác nó có nghĩa là gì, và quan trọng hơn, làm thế nào hiểu rằng người ta có thể đón nhận Tin Mừng từ những người thường không được coi là đáng tin cậy cho lắm?
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói rõ về điều này. Thật đáng để trích dẫn đầy đủ một đoạn quan trọng từ Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (EG) của ngài:
“Đối với Giáo hội, lựa chọn ưu tiên cho người nghèo trước hết là một phạm trù thần học hơn là phạm trù văn hóa, xã hội học, chính trị hay triết học. Thiên Chúa tỏ lòng thương xót của Ngài trước hết cho người nghèo. Sự ưu ái này của Thiên Chúa mang đến những hệ quả cho đời sống đức tin của tất cả các Kitô hữu, vì chúng ta được mời gọi có ‘tâm tình… như chính Đức Kitô Giêsu’ (Pl 2,5). Được gợi hứng bởi điều này, Giáo hội đã lựa chọn ưu tiên người nghèo, được hiểu như là ‘một hình thức ưu tiên đặc biệt trong việc thực hành đức ái Kitô giáo, mà toàn bộ truyền thống của Giáo hội làm chứng.’ Lựa chọn này – như Đức Bênêđictô XVI đã dạy – ‘bao hàm trong đức tin Kitô giáo của chúng ta vào một Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên giàu có bởi sự nghèo khó của Ngài.’
Đây là lý do tại sao tôi muốn một Giáo hội nghèo và của người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta. Họ không chỉ chia sẻ cảm thức đức tin (sensus fidei), nhưng giữa những khó khăn của họ, họ nhận biết Chúa Kitô chịu đau khổ. Chúng ta cần để cho họ loan báo Tin Mừng cho mình. Tân Phúc Âm Hóa là một lời mời gọi nhận ra sức mạnh cứu độ đang hoạt động trong cuộc sống của họ và đặt họ vào trung tâm trong cuộc lữ hành của Giáo hội. Chúng ta được mời gọi tìm thấy Chúa Kitô nơi họ, lên tiếng cho chính nghĩa của họ, nhưng cũng là bạn của họ, lắng nghe họ, nói thay cho họ và đón nhận sự khôn ngoan huyền nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta qua họ” (EG, 198).
Một số ý tưởng nổi lên từ đoạn văn này. Những người nghèo nhất có nhiều điều để dạy chúng ta. Qua những đau khổ của chính họ, họ biết Chúa Kitô chịu đau khổ. Chúng ta phải để cho họ loan báo Tin Mừng cho mình. Cần phải nhận ra sức mạnh cứu độ của cuộc đời họ và đặt họ vào trung tâm trong cuộc lữ hành của Giáo hội. Do đó, cần phải khám phá ra Chúa Kitô nơi họ và đón nhận sự khôn ngoan huyền nhiệm mà Thiên Chúa muốn truyền đạt cho chúng ta qua họ. Đây chắc chắn là một chương trình phong phú và đầy tham vọng!
Nhưng những lời khuyên nhủ như vậy không hề hiển nhiên và thậm chí có vẻ xa lạ đối với nhiều Kitô hữu, ngay cả với những người có thiện chí. Liệu những cuộc gặp gỡ đích thực với những người nghèo nhất có thực sự mang lại cho chúng ta tất cả những điều này không? Không thiếu những phản đối hoặc câu hỏi cần được lắng nghe. Nói như vậy chẳng phải là lý tưởng hóa sự nghèo đói sao? Chẳng phải nghèo đói trước hết là sự hủy hoại sao? Chẳng phải nó gây tổn hại sâu sắc đến con người sao? Làm sao những người bị tổn thương sâu sắc có thể mang Tin Mừng đến cho chúng ta? Tại sao cuộc sống của người nghèo lại có sức mạnh cứu độ, trong chính họ cũng thường xuyên khó đương đầu với sự tồn tại của chính mình? Điều này chẳng phải là nghịch lý sao? Đâu là sự khôn ngoan mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đến? Nếu nghèo đói khiến người ta sống trong tình trạng báo động, không có khả năng đối phó, thì làm sao có thể có sự khôn ngoan gắn liền với nó?
Không thể nào trả lời những câu hỏi này mà không mô tả thực trạng của sự nghèo đói cùng cực. Vấn đề không phải là bắt đầu từ một cái nhìn lãng mạn về sự thiếu thốn.
Nghèo đói và những tác động hủy diệt của nó
Cảnh nghèo cùng cực không chỉ đơn thuần là “đảo ngược vận mệnh.” Có những người mà sự an toàn của họ bị tước đoạt một cách tàn bạo bởi chiến tranh, khủng bố, bệnh tật, tai nạn, lưu vong hoặc việc tìm kiếm một nơi trú ẩn. Những chấn thương này để lại những vết sẹo không thể phai mờ. Nhưng may mắn thay, khi họ tìm thấy một môi trường thuận lợi hơn, những người này thường nhanh chóng hồi phục. Trong một thời gian ngắn, họ lấy lại tự chủ và có thể tiếp tục định hướng cuộc sống của mình. Đây là trường hợp xảy ra chẳng hạn với nhiều người tị nạn hoặc những người bị mất người thân hoặc thất nghiệp. Giờ đây, tình hình trở nên rất khác đối với những người sinh ra trong một môi trường đầy những sự bất lợi và nghèo khổ nghiêm trọng, bạo lực, ngược đãi và bất an. Cha Joseph Wresinski và phong trào “ATD Quarto Mondo”[1] đã giúp chúng ta nhận thức được những ảnh hưởng của nghèo đói cùng cực: một sự tích tụ các vấn đề theo thời gian [2].
Đối với những người này, những môi trường này và những gia đình này, cuộc sống có vẻ như một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để chống lại những thứ luôn có nguy cơ sụp đổ từ mọi phía [3]. Nhưng hơn cả một loạt vấn đề không thể giải quyết, nghèo đói cùng cực – hay ít nhất là nỗi đau khổ gắn liền với nó – hơn hết còn là sự sỉ nhục khi bị đánh giá là không đủ tin cậy để tương tác với người khác để định hình xã hội. Phản ứng lại điều này, những người đang trong nỗi đau khổ này có xu hướng cắt đứt quan hệ, xa lánh những gì khiến họ đau khổ và những người không “coi trọng” họ. Để rồi, họ càng lúc càng bị đẩy ra bên lề xã hội do sự khốn cùng gây ra. Martine Fernet, người làm việc với Diaconie du Var kể lại rằng, sau khi phải đồng ý giao con cho DDASS (Sở Y tế và Xã hội của Pháp) [4], bà đã cố gắng giành lại chúng, nhưng gặp phải sự từ chối làm cho tình trạng bị gạt ra ngoài lề của bà thêm trầm trọng: “Năm nào tôi cũng đấu tranh để giành lại con, nhưng năm nào tôi cũng bị nói, ‘Không, bà Fernet, bà vẫn chưa ổn định, bà không thể!’ v.v…. Đúng là nếu bạn làm điều này một lần, hai lần, nhưng sau lần thứ ba, bạn bắt đầu nghĩ, ‘Chà, vì bạn không ổn định, nên bạn không có khả năng.’ Đó là cách bạn bắt đầu sa ngã, bắt đầu với rượu, ma túy, đường phố, rồi tù tội. Đúng vậy, bạn càng nói ‘không’, bạn càng chìm xuống.”[5]
Trường hợp được đề cập trong đoạn này là vô danh. Đó là một người không có khuôn mặt và không có tên tuổi để đưa ra phán xét. Mặc dù điều này không phải là quyết định cuối cùng – vẫn còn một chữ “chưa” (“bà ấy vẫn chưa ổn định”) – nhưng điều còn lại đối với Martine là một đánh giá tiêu cực: “Bà ấy không ổn định.” Martine tiếp nhận phán xét này, biến nó thành của riêng mình, thậm chí coi nó như một đường lối hành động, do đó tán thành những lời nhận xét về bà, thậm chí còn đi xa hơn, bởi vì “sa ngã” và “chìm xuống” là những thuật ngữ được biểu thị bằng một loạt các từ mang tính phán xét (rượu, ma túy, đường phố, nhà tù) kéo theo những nguy hiểm nghiêm trọng. Hiện tượng cô lập này sẽ mang đến sự hủy diệt.
Cha Wresinski thật sự đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm về cảnh nghèo cùng cực:
“Tầng lớp dưới đáy xã hội đoán được cảm xúc của người khác, nhưng họ không hiểu được chúng. Lời nói khan hiếm, từ vựng nghèo nàn; làm sao họ có thể trò chuyện thực sự? Nếu họ không thể thực sự nói chuyện với nhau, thì không thể nào xây dựng tư duy chung. Ở tuổi 30 hoặc 35, người nghèo thường kiệt sức, gần như già nua. Nhu cầu chăm lo cho những thứ trước mắt, đáp ứng nhu cầu về thức ăn, tiền bạc và chỗ ở chi phối suy nghĩ của họ. Trong những điều kiện này, không bao giờ yên bình, luôn bị hiểu lầm, làm sao một cá nhân có thể quan tâm đến mối bận tâm và ý tưởng của người khác? Các gia đình cảm nhận được nỗi đau khổ của nhau; họ thương hại, họ thực sự xúc động, nhưng điều này chỉ có thể kéo dài trong giây lát. Trong “ATD Quarto Mondo”, các gia đình có thể cảm nhận được nỗi đau của người khác. Nhưng điều này không dẫn đến tình liên đới cũng không đưa tới sự giúp đỡ lẫn nhau lâu dài gì cả.” [6]
Một cách để hiểu được tình trạng của những người phải đối mặt với tình trạng cực kỳ bất an là tưởng tượng một loại cốt lõi bên trong con người không bị ảnh hưởng bởi những cuộc tấn công này, như thể hoàn cảnh bên ngoài không ảnh hưởng đến nó. Sự khốn cùng tạo ra những tác động tai hại hơn nhiều so với việc chỉ tước bỏ những thứ không cần thiết. Nó tấn công vào những điều thiết yếu để sống; nó tàn phá con người từ tận sâu thẳm bên trong. Nó làm tê liệt lời nói và cử chỉ, làm giảm khả năng tạo khoảng cách với tình huống. Nó khiến con người trở nên phẫn uất [7], khiến họ đánh mất ngay cả những điểm tựa cơ bản nhất để có thể tồn tại trong xã hội. Chúng ta cần lắng nghe với toàn bộ sức mạnh bi thương của câu hỏi mà một người thuộc tổ chức “ATD Quarto Mondo” đã đặt ra: “Nếu Chúa là một người cha yêu thương chúng ta, tại sao Ngài lại để chúng ta trở nên bất hạnh và xấu xa?” [8] Cuối cùng, chính cuộc sống và khả năng tồn tại của một người như là một chủ thể bị ảnh hưởng.
Khi kể lại kinh nghiệm vấp ngã đã trải qua, Philippe mô tả chuỗi sự kiện như muốn nghiền nát anh ấy: “Không ai gọi cho bạn nữa, và rồi bạn cứ thế trở nên vô danh, bạn bước vào sự vô danh. Khi bạn trở nên vô danh, thì không ai biết đến nữa; rồi chính bạn cũng không còn biết mình là ai nữa. Đó chính là như vậy…”[9] Những thuật ngữ mà Philippe sử dụng báo hiệu một sự mất mát, một sự suy giảm của bản thân. Anh ta chỉnh sửa câu “anh cứ thế mà trở nên vô danh” thành “anh bước vào sự vô danh.” Anh ta nhấn mạnh thêm quan điểm này bằng cách nói “anh trở nên vô danh,” qua đó nhấn mạnh rằng đây thực sự là một quá trình. Trong câu tiếp theo, rất rõ ràng, anh thiết lập mối liên kết giữa sự biến mất trong mắt người khác và sự hủy hoại bản sắc cá nhân: “Không ai còn biết anh nữa” và “Chính anh cũng không còn biết mình là ai nữa….” Những lời cuối cùng của anh nhanh chóng mờ dần thành những dấu chấm lửng và sự im lặng, tượng trưng cho sự bất lực trong việc nói lên suy nghĩ và tồn tại như chính mình, cho sự tan biến và lạc lối. Nếu bắt đầu từ đây, có thể thấy rõ rằng lời nói, tri thức và suy nghĩ của những người nghèo khổ không hề được hình thành một cách trọn vẹn, mà dường như bị che giấu đâu đó, như thể chỉ cần đưa một chiếc micro đến là có thể thu lại tiếng nói của họ. Như cha Wresinski đã nói:
“Nếu chúng ta không thể thực sự trò chuyện cùng nhau, thì không thể xây dựng một suy nghĩ chung.”
Để hiểu được điều gì đó đến từ cuộc sống và kinh nghiệm của những người “không được coi trọng”, ta phải dệt nên một mạng lưới đối thoại giữa họ và những người sẵn sàng đến gặp họ, không phải để dạy dỗ điều gì, mà trước hết là để cùng nhau bước đi, mở ra một cuộc đối thoại, một cuộc trò chuyện có thể mất nhiều năm mới thực sự hình thành.[10] Điều này có thể mất rất nhiều thời gian và năng lượng; đó là những gì mà phong trào “ATD Quarto Mondo” và tất cả các sáng kiến được sinh ra từ nguồn cảm hứng của cha Wresinski đã và đang thực hiện trong nhiều thập kỷ qua.[11]
Mô tả này trở nên cần thiết để không chỉ dừng lại ở những ngôn từ mà còn để hiểu rõ hơn chúng ta đang nói về ai khi nhắc đến những người “nghèo khổ nhất,” và để nhận thức sâu sắc hơn về điều này như một điều kiện sống, cũng như một trải nghiệm.
Bây giờ, chúng ta có thể đi vào trọng tâm: tại sao hành trình cùng những con người này có thể là một hành trình Tin Mừng?
Gặp gỡ những người trong hoàn cảnh bấp bênh: một nẻo về Nguồn
Hãy bắt đầu với một trải nghiệm hoàn toàn bình thường, mà chắc chắn mỗi người trong chúng ta đều từng có. Tôi đến thăm một người bạn đang ốm nặng trong bệnh viện. Lúc đầu, tôi cảm thấy lo lắng, tự hỏi mình sẽ nói gì với anh ấy, cố gắng tìm những từ ngữ phù hợp để nói chuyện với anh ấy. Nhưng rồi, khi tôi đối diện với anh ấy, mọi thứ gần như luôn dễ dàng hơn tôi tưởng tượng: những lời nói đến một cách tự nhiên, từ chính những gì khoảnh khắc ấy mang lại. Không hiếm khi, nhờ những lời trao đổi hoặc những cử chỉ, những điều mạnh mẽ lại được nói ra theo cách rất nhẹ nhàng. Đôi khi, thậm chí còn có cảm giác như bị cuốn theo một dòng chảy nào đó. Có một trải nghiệm về sự bình an, một làn gió tươi mát, và cũng có cảm giác như chạm vào điều gì đó sâu sắc và vững chắc, như một tảng đá mà trên đó cuộc sống của chúng ta có thể được xây dựng. Đó là một trải nghiệm về sự an ủi, đầy bất ngờ và không lường trước được.
Điều gì đã xảy ra với chúng ta? Những người sống trong điều kiện bấp bênh có một trải nghiệm về cuộc sống rất khác so với những ai xem thế giới là một nơi an toàn, có trật tự và, theo quan điểm của chúng ta, có thể kiểm soát được. Giao tiếp đòi hỏi khả năng thống nhất về cách sử dụng ngôn ngữ, về một hệ quy chiếu chung mà cả hai bên đều hiểu. Khi chia sẻ quá ít trải nghiệm với ai đó, sẽ rất khó để tìm được một điểm chung. Khi đó, một điều gì đó khác phải được phát minh – tức là ngôn ngữ mà chúng ta chia sẻ sẽ phải nảy sinh từ chính trải nghiệm chung mà ta đang có trong quá trình tìm hiểu nhau. Chính vì vậy, những cuộc trao đổi như thế này thường lan man: ta di chuyển từ điểm này sang điểm khác mà không có một kế hoạch định sẵn hay một hướng đi rõ ràng.
Trong cuộc gặp gỡ với những người nghèo khổ nhất, chúng ta trải nghiệm sự thiếu thốn của nhiều phương thức giao tiếp thông thường. Điều đó không bao giờ thoải mái, và vì thế nó buộc chúng ta phải tăng cường sự chú ý đến người kia. Đây là một bài thực hành về sự hiện diện – nghĩa là làm cho bản thân trở nên hiện diện trọn vẹn nhất với người đối diện, và sống mối quan hệ trong thời khắc hiện tại. Chúng ta cùng nhau dò tìm những gì có vẻ hứa hẹn cho cuộc gặp gỡ này và thử nghiệm những con đường đó, theo đuổi chúng với mức độ thành công khác nhau. Điều đúng với một người bạn ốm nặng cũng đúng với mối quan hệ với một người đang chịu đựng sự bấp bênh xã hội. Trong cả hai trường hợp, ta đều cảm thấy rằng chúng ta đến từ những thế giới rất khác nhau, và để có thể thực sự gặp gỡ, ta phải bắt đầu lại từ những gì đang được trao cho mình, và từ đó gạt bỏ tất cả những kỹ thuật giao tiếp mà ta thường sử dụng trong đời sống xã hội hằng ngày mà không hề nhận thức được.
Trong cuộc gặp gỡ với một người đang ở trong tình cảnh ngặt nghèo (nơi mà những câu hỏi tối hậu trở nên cấp thiết, đặc biệt là về sự sống và cái chết), những mối bận tâm của tôi dần trở nên nhỏ bé, vì tôi nhận ra rằng chúng không chiếm một vị trí quan trọng và không liên quan đến những câu hỏi căn bản của sự tồn tại. Nhưng không chỉ vậy: người đang vật lộn giữa sự sống và cái chết mang đến trước mắt tôi cuộc chiến mà tôi thường bỏ qua. Người ấy khẳng định rằng họ tìm được điều gì đó để tồn tại ngay trong những hoàn cảnh mà tôi tưởng như không thể sống nổi. Có lẽ chính điều này tạo ra hiệu ứng xoa dịu. Những lo âu của tôi về việc bỏ lỡ cuộc sống lắng xuống, bởi vì tôi gặp một người, dù trong hoàn cảnh tồi tệ hơn tôi gấp nghìn lần, vẫn tìm thấy điều gì đó để bám víu mà sống, vẫn duy trì được kết nối với nguồn cội của sự sống. Đó là một bất ngờ, một điều gì đó nói với tôi về sự tái sinh.
Giao Ước trở lại trước mắt
Về lâu về dài, những người trong hoàn cảnh bấp bênh gợi mở một kiểu quan hệ có thể được tiếp cận từ khái niệm giao ước trong Kinh Thánh. Một câu chuyện diễn ra theo hướng này được nhận diện bởi mối liên kết mạnh mẽ, được duy trì bởi một cam kết không có “lý do” nào khác ngoài “vì đó là bạn.” Mối tương quan này không dựa trên sự trao đổi dịch vụ: tìm kiếm sự hồi đáp từ người khác, không chỉ bằng lời nói, nhưng còn là sự khẳng định sự xuất hiện hay hình thành của một chủ thể.
Hành trình cùng những người trong tình trạng bấp bênh giúp ta nhận ra khả năng đánh thức sự sống mà mình có được. Điều này cũng đúng với mọi mối quan hệ mang tính bất đối xứng: giữa người lớn/trẻ em, người khỏe mạnh/người bệnh tật hoặc già yếu, tù nhân/người tự do, người thất nghiệp/người thành công trong xã hội, người khuyết tật/người có đầy đủ khả năng: trong mỗi trường hợp, sự bất đối xứng có thể là một trở ngại, nhưng cũng có thể là một lời kêu gọi hướng đến sự sống. Vì vậy, những ai đến giúp đỡ những người yếu đuối hoặc mong manh hơn lại có thể nhận ra rằng chính mình cũng được giúp đỡ.
Khi chúng ta trải nghiệm loại gắn kết này, và những người sống trong tình cảnh bấp bênh là những người hướng dẫn tuyệt vời trên con đường ấy, bởi họ gặp khó khăn khi duy trì những mối quan hệ mang tính trao đổi, chúng ta được dẫn trở lại với mối tương quan giao ước. Khi chúng ta có cơ hội trở thành một phần của những câu chuyện loại này, được nâng đỡ bởi những nguyên tắc như vậy, chúng ta sẽ khám phá ra khả năng hiện thực hóa mối tương quan giao ước mà trên đó toàn bộ lịch sử nhân loại dựa vào. Bằng cách đáp lại như thế, chính chúng ta cũng được hưởng lợi.
Nếu những người đang đau khổ có khả năng đưa chúng ta trở lại một kiểu tương quan gợi nhớ đến giao ước trong Kinh thánh (một mối quan hệ “vì bạn là bạn”, điều làm nên sự sống của chúng ta), thì chúng ta phải nói rằng họ mang lại cho chúng ta một trải nghiệm thiêng liêng, đó là dẫn dắt chúng ta trở về Nguồn, trở lại với điều thực sự mang lại sự sống. Các mối quan hệ khác, chẳng hạn như quan hệ hợp đồng, không mang lại sự sống. Chúng giúp đo lường sự đóng góp của mỗi người, vốn là điều quan trọng, và thậm chí thiết yếu, cho cuộc sống trong xã hội. Nhưng điều này không đưa chúng ta vào hiện hữu, cũng không thể hiện được tính độc nhất của mỗi người, trong khi mối quan hệ “vì bạn là bạn” trước hết nhắm đến điều này và làm cho nó trở nên khả thi.
Trải nghiệm về mối quan hệ phát sinh sự sống này là một trải nghiệm về sự sống đích thực; đó cũng là một trải nghiệm về Thiên Chúa, về “Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có” (Rm 4,17). Do đó, đó là một kinh nghiệm thiêng liêng quan trọng được gợi ý cho chúng ta, một kinh nghiệm thần học. Nếu người ta định nghĩa Giáo hội theo cách tương ứng với một trải nghiệm như vậy, người ta có thể mạnh dạn nói rằng: Giáo hội chính là thực tại làm cho giao ước được cảm nhận giữa thế giới. Công đồng Vaticanô II mô tả Giáo hội là thực thể “trong Đức Kitô, theo một cách nào đó [là] bí tích hay dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.”[12] Sự kết hợp mật thiết của nhân loại với Thiên Chúa là giao ước. Thật thú vị khi nhận thấy rằng bản văn liên kết giao ước này với “sự hiệp nhất toàn thể nhân loại”, nghĩa là, với công việc không ngừng nghỉ mà qua đó nhân loại nhận ra chính mình là một (một sự hiệp nhất liên tục cần được đổi mới, vì nó luôn bị đe dọa bởi sự ganh đua, bạo lực, và bởi việc không còn nhìn nhận một số thành viên của nhân loại là anh em, như vẫn thường đã xảy ra nhiều lần).
Điều này cho chúng ta một cảm nhận ban đầu về những gì mà cuộc gặp gỡ với những người trong hoàn cảnh rất bấp bênh mang lại cho Giáo hội. Nó cho phép chúng ta trải nghiệm về Thiên Chúa, Đấng gọi chúng ta đến với sự sống, Đấng nâng đỡ và cứu rỗi. Nó giúp Giáo hội kết nối lại với chính mình, với những gì tạo nên cốt lõi ơn gọi của mình. Từ đó, chúng ta có thể hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ này của Giáo hội với tất cả những người không được coi trọng.
Vị trí Trung tâm của Người Khốn Khổ trong Sứ mạng của Chúa Kitô
Nói và suy gẫm về Tin Mừng dẫn chúng ta một cách tự nhiên đến với các sách Phúc Âm. Những người đau khổ chiếm vị trí nào ở đó? Sự hiện diện của họ tham gia vào việc loan báo Tin Mừng như thế nào? Theo thánh sử Luca, sứ mạng của Chúa Kitô, như được chỉ ra trong đoạn Ngài giảng tại Nazareth qua bài đọc từ sách Isaia (x. Lc 4,14-21), trước hết là loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Cảnh tượng khai mạc sứ vụ của Chúa Giêsu trong sách Luca này vô cùng trang trọng và cho thấy chương trình của Ngài, tập trung vào những lời này, “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, sự giải phóng cho các tù nhân”[13] Thông điệp được hiểu là sự giải thoát cho những người bị giam cầm và bị áp bức (c. 18d và 18f), người mù được sáng mắt (c. 18e), và công bố một năm hồng ân (c. 19; ở đây có ý nói đến năm thánh trong Lv 25, bao gồm việc miễn nợ, phóng thích nô lệ và để cho đất đai được nghỉ ngơi).
Ngay sau đó, trong Tin Mừng Luca, khi Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của những người được Gioan Tẩy Giả phái đến về căn tính Mêsia của Người, những yếu tố tương tự được nhắc lại, bổ sung thêm việc người què được đi, người điếc được nghe và người chết được sống lại (x. Lc 7,18-23). Đáng chú ý là hầu hết tất cả những đặc điểm này của thời kỳ Đấng Mêsia đều liên quan đến cả thân xác lẫn mối tương quan. Chúng ta có một không gian tương quan được tái tạo cho phép mỗi người tham gia trở lại vào các trao đổi với người khác, tạo nên một mạng lưới gắn kết không bỏ sót ai và qua đó thực sự tạo thành một dân tộc. Một lần nữa, con người, hàng hóa và lời nói được luân chuyển; không ai bị loại trừ và mọi người đều cảm nhận được tác động ấy trong chính cơ thể của mình. Đó là cơ hội để mọi người trải nghiệm rằng tất cả những điều này là một ân huệ: việc không đề cập đến chuyện canh tác đất đai rõ ràng nhấn mạnh điều này.
Dân Chúa được hình thành khi ân huệ mà Thiên Chúa ban tặng đến được với mọi người và không gặp bất kỳ trở ngại nào, để tất cả cùng hưởng lợi: ở vị trí hàng đầu là những người nghèo, những người đang biến mất khỏi tầm nhìn của chúng ta. Con người được phục hồi phẩm giá như vậy sẽ có thể nhớ lại lịch sử của họ và cách Chúa đã cứu chuộc họ khỏi ách nô lệ và giải thoát họ khỏi tay kẻ thù. Họ sẽ có thể nhận ra mình là dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, được Ngài cứu khỏi cảnh khốn cùng. Họ sẽ không lấy đó làm hổ thẹn; trái lại, đây sẽ là dấu chỉ cho thấy sự cam kết và hiện diện của Thiên Chúa: “Khi ngươi vào đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi làm cơ nghiệp, và ngươi nhận lấy nó, và định cư ở đó” (Đnl 26,1), anh em sẽ nhớ lại lịch sử của mình, phần lớn là lưu lạc, bất hạnh và nô lệ, nhưng cũng là sự gần gũi và can thiệp của Thiên Chúa. Một mối tương quan đúng đắn với người nghèo không thể tách khỏi mối dây liên kết cộng đồng, nhắc nhở họ về lịch sử, sự yếu đuối của họ, và đưa họ trở lại mối quan hệ thực sự với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao sự hiểu biết về Thiên Chúa không thể tách rời khỏi mối quan tâm đến quyền lợi của người nghèo và bất hạnh.[14]
Tin Mừng cho người nghèo, sự đổi mới cho tất cả
Như thế, việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cũng chính là loan báo cho tất cả mọi người. Thậm chí có thể nói: đó chính là việc loan báo Tin Mừng, về Nước Trời mà Chúa Giêsu khai mở. Nhưng điều này chỉ thực sự “hữu hiệu”, có thể nói như vậy, chỉ khi mọi người tham gia vào phong trào này, trong đó họ hiểu rằng những gì xảy ra với những người thiếu thốn sẽ thay đổi mọi mối quan hệ trong cộng đồng, tạo điều kiện cho sự hòa giải, từ đó thể hiện một sự đổi mới của giao ước.
Nhưng trong câu chuyện của Luca về việc Chúa Giêsu giảng đạo ở Nazareth, điều này đã không xảy ra! Những người nghe đã phản ứng lại bằng cách đòi hỏi những dấu chỉ hữu hình, những phép lạ như Chúa Giêsu đã làm ở những nơi khác. Họ muốn có bằng chứng xác thực rằng lời rao giảng của Người thực sự sẽ được thực hiện. Họ từ chối từ bỏ thái độ nghi hoặc và ngờ vực; nhưng trên thực tế, điều này liên quan đến chính ân huệ (ân huệ cao quý nhất là sự sống): “Người có thực sự làm cho sự sống này trở nên khả dĩ với chúng ta không? Nếu vậy, hãy chứng minh đi! Hãy chứng minh đi!” Khi làm như vậy, họ đã không nắm bắt được yếu tố hoán cải mà lời loan báo của Isaia chứa đựng, tức là việc khôi phục phẩm giá cho người nghèo buộc toàn xã hội phải đổi mới chính mình và đón nhận những người bị gạt ra bên lề theo một cách khác. Vì đây thực chất là một lời mời gọi đón nhận ân huệ sự sống mà Đức Kitô ban tặng.
Các thánh sử khác, dù không diễn tả rõ ràng như Luca, cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Chúa Giêsu gặp gỡ những người khốn khổ. Đến mức, ta có thể cảm nhận rằng, vì lòng nhiệt thành của Người đối với dân mình, việc đón nhận những con người đau khổ – những người bị bệnh tật, bị quỷ ám, hoặc bị xã hội gạt ra bên lề – là ưu tiên hàng đầu. Như thể mối quan hệ mà Người thiết lập với dân của mình trước tiên phải kể đến những thành viên đau khổ.[15]
Dĩ nhiên, không phải ai cũng nghèo – chẳng hạn, ông Giakêu, một viên chức thu thuế tội lỗi, chắc chắn là một người giàu có – và họ cũng không phải lúc nào cũng ở trong tình trạng khốn cùng – chẳng hạn, mẹ vợ của ông Simon bị sốt, người đàn ông bại tay, hay người phụ nữ bị còng lưng. Nhưng Chúa Giêsu phần lớn tiếp cận với những người đang phải đối diện với tình trạng không thể sống trọn vẹn. Nếu bỏ đi những người này, thì còn lại ai trong các sách Phúc Âm? Gioan Tẩy Giả, các môn đệ, gia đình của Chúa Giêsu, chàng thanh niên giàu có, Nicôđêmô, các Pharisêu, các kinh sư, các tư tế (nhưng lại không được miêu tả rõ ràng). Nói cách khác, nếu loại bỏ những người nghèo khổ, đau yếu, bị quỷ ám, và những ai cầu xin cho họ, thì Tân Ước sẽ bị tước mất phần lớn các nhân vật chính.
Điều này khẳng định vị trí trung tâm của những con người ấy trong việc loan báo Tin Mừng. Việc đối diện với nỗi đau khổ của con người buộc Đức Giêsu phải tự mạc khải mình là Đấng có quyền năng trên các thế lực của sự chết. Người nghèo, những kẻ bị quỷ ám, chính họ đã thúc đẩy sự tỏ lộ quyền năng của Đức Kitô. Nhưng chúng ta còn phải đi xa hơn nữa: những cuộc gặp gỡ với người nghèo, việc đón nhận những ai có nguy cơ bị lãng quên, đặt ra một câu hỏi trọng tâm về sự sống được ban tặng – một câu hỏi nền tảng của nhân loại: Sự sống có thực sự là một ân huệ được trao ban, hay nó phải được kiếm tìm và giành lấy? Ai là Đấng ban tặng nó? Là Thiên Chúa trên cao, hay là một người trong chúng ta, một người anh em của chúng ta?
Kết luận
Dựa trên những gì đã trình bày, người ta có thể có cái nhìn mang tính công cụ về người nghèo trong các sách Phúc Âm: rằng Đức Giêsu cần họ để làm cho sứ vụ của Người trở nên rõ ràng. Trong trường hợp này, họ sẽ bị biến thành công cụ, không được nhìn nhận như những con người độc lập, có giá trị riêng, có trọng lượng thực sự, có khả năng nói lên những điều quan trọng, hay nói cách khác, có thẩm quyền. Nhưng điều này không đúng, như hai trình thuật Phúc Âm đã cho thấy.
Trong Tin Mừng Luca, khi Đức Giêsu dùng bữa tại nhà ông Simon, một người Pharisêu, một người phụ nữ đến quấy rầy bữa ăn, khóc ướt chân Người, xức dầu thơm và lau chân Người bằng tóc của mình (x. Lc 7,36-50). Simon lấy làm phẫn nộ: nếu Đức Giêsu thực sự là một ngôn sứ, thì Người phải biết rằng bà ta là một tội nhân và không được để bà làm thế đối với mình. Nhưng Đức Giêsu liệt kê những điều mà Simon đã không làm, trái ngược với người phụ nữ này: rửa chân, hôn chào, xức dầu. Trong cảnh tượng này, và đối với Simon, Đức Giêsu đã làm cho người phụ nữ tội lỗi này trở thành một mẫu gương, Người giới thiệu bà như một người đáng noi theo, không chỉ cho Simon mà còn cho nhiều người khác, và cuối cùng là cho tất cả độc giả của Phúc Âm. Đây là một sự đảo ngược ngoạn mục! Và còn rất nhiều sự đảo ngược khác trong Phúc Âm nữa.
Nhưng liệu chúng ta có thể nói rằng chính Đức Giêsu, vào một số thời điểm nhất định, đã nhận được điều gì đó từ những con người gặp hoàn cảnh khó khăn này không? Nếu đúng như vậy, có thể nói rằng Người nhìn nhận nơi họ một thẩm quyền nào đó đối với chính mình. Trong câu chuyện về người phụ nữ Canaan (x. Mt 15,21-28), chúng ta thấy Đức Giêsu tiếp nhận Tin Mừng từ một người phụ nữ đang trong cơn đau khổ. Bà là một người ngoại giáo, một người đàn bà dân ngoại, kêu khóc đến mức làm phiền cả nhóm môn đệ và gây xáo trộn vì bà muốn Đức Giêsu chữa lành cho con gái mình. Ban đầu, Đức Giêsu từ chối, nói rằng Người chỉ đến để tìm kiếm những con chiên lạc của Israel và rằng không đúng khi lấy bánh của con cái mà cho lũ chó con. Nhưng người phụ nữ can đảm và khôn ngoan đáp lại rằng ngay cả lũ chó con cũng được ăn những mẩu bánh vụn rơi từ bàn của chủ, ngụ ý rằng có đủ bánh cho tất cả mọi người, kể cả những con chó nhỏ. Bà chấp nhận sự tuyển chọn của Israel, nhưng cũng gợi ý rằng phúc lành ấy được ban cho tất cả mọi người, như đã được loan báo cho ông Abraham. Bà nhắc nhở Đức Giêsu rằng lập luận của bà không dựa trên tính toán mà trên sự dư tràn. Đức Giêsu xúc động trước những lời này và được chính người phụ nữ Canaan dạy dỗ. Người không giấu sự thán phục đối với bà và đức tin của bà.
Còn nhiều câu chuyện khác, trong đó Đức Giêsu thể hiện sự ngưỡng mộ tương tự: mỗi lần đều là trong cuộc gặp gỡ với những người đang đau khổ (như người phụ nữ bị băng huyết hay anh mù Bartimê), hoặc với những người thân của họ đứng ra cầu xin (như viên đại đội trưởng Rôma xin cho người đầy tớ của mình). Đáng chú ý là Đức Giêsu chưa bao giờ bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với đức tin của các môn đệ; thay vào đó, Người thường khiển trách họ vì sự yếu kém trong đức tin, thậm chí trách họ là “chậm tin” (Lc 24,25) hay “kém lòng tin” (Mt 8,26). Không nghi ngờ gì, các thánh sử, khi truyền lại những lời này, muốn gửi đến tất cả độc giả của Phúc Âm một thông điệp rằng: những người gặp hoàn cảnh khó khăn chính là những người thầy trong đức tin. Những người nghèo rao giảng Tin Mừng cho chúng ta.
Nguồn: laciviltacattolica.com
Tác giả: Étienne Grieu S.J.
Chuyển ngữ: Nam, S.J.
DOI: https://doi.org/10.32009/22072446.1124.13
[1] Cf. www.atd-quartmonde.fr
[2] Cf. “Grande pauvreté et précarité économique et sociale, Rapport au Conseil Economique et Social, 1987”, trong Journal officiel, ngày 28 tháng 2 năm 1987. Báo cáo này nêu bật ảnh hưởng được tạo ra bởi những tác động của cuộc sống bấp bênh theo thời gian, chẳng hạn như cảm giác không có chỗ đứng trên thế giới. Xem thêm về chủ đề này, khái niệm “tàng hình xã hội” (“social invisibility) trong G. le Blanc, L’invisibilité sociale, Paris, PUF, 2009.
[3] Như Colette và Michel Collard-Gambiez đã nói, “Cuộc sống của người nghèo giống như một ngôi nhà mà nền móng chưa được củng cố và kết quả là các bức tường liên tục sụp đổ. Vì vậy, người đó luôn cố gắng dựng lại chúng bằng mọi cách có thể, với những phương tiện sẵn có, nhưng vô ích. Việc sửa chữa vẫn không ổn định, báo trước những thảm họa trong tương lai” (C. M. Collard-Gambiez, Et si les pauvres nous humanisaient…, Paris, Fayard, 2004, 27 f).
[4] Sở Y tế và Xã hội (DDASS) là một cơ quan của Pháp xử lý các vấn đề về nghèo đói và ngược đãi. Kể từ năm 2010, các trách nhiệm liên quan đến hành động xã hội đã được chuyển giao cho các tổ chức địa phương khác, nhưng tên gọi này vẫn còn tồn tại trong ngôn ngữ bình dân.
[5] Trích từ DVD Paroles de vie, bởiSecours Catholique du VarvàRCF Méditerranée dành choDiaconie du Var(2004).
[6] J. Wresinski, Les pauvres sont l’Église. Entretiens avec Gilles Anouil, Paris, Centurion, 1983, 81 f.
[7] Cụm từ được cha Wresinski sử dụng để mô tả bạo lực liên quan đến nghèo đói. Cf. J. Wresinski, “La violence faite aux pauvres”, trong Id., Refuser la misère.Une pensée politique née de l’action, Paris, Cerf, 2007, 113-119.
[8] D. Paturle, Ces pauvres qui interrogent l’Eglise, Paris, Éditions de l’Atelier, 2005, 117 (bản tiếng Ý: Questi poveri che interrogano la Chiesa, Milan, Jaca Book, 2005).
[9] Trích từ DVD Parole de vie,op. cit.
[10] Như có thể nghe thấy trong câu chuyện từ Bigna Paturle, trong L. Blanchon,Voici les noces de l’Agneau.Quand l’incarnation passe par les pauvres, Namur, Lessius, 2017, 44-62.
[11] Cf. http://reseau-saint-laurent.org/. Le Réseau Saint Laurent tập hợp hơn 140 hội huynh đệ ở Pháp để chia sẻ đức tin và cầu nguyện với những người đang ở trong tình trạng rất bấp bênh.
[12] Công đồng Chung Vaticaô II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, số 1.
[13] Trong câu 18c, từ Hy Lạp ptōkhes, những người ăn xin, những người bần cùng trốn tránh ánh mắt của người khác, gợi ý đến từ tiếng Do Thái anawim, què quặt, đau khổ, bị sỉ nhục, từ Is 61,1. Về từ vựng của sự nghèo khó trong Kinh Cựu Ước và thuật ngữ anawim, xem A. Gelin, Les pauvres que Dieu aime, Paris, Cerf, 1967; C. Wiéner, Le Dieu des pauvres, Paris, Éditions de l’Atelier, 2000.
[14] Cf. Gr 22,16. Những khía cạnh này được trình bày rõ trong F. Lienhard, De la pauvreté au service en Christ, Paris, Cerf, 2000.
[15] Cf. V. Bouyer, Les anonymes de l’Évangile. Rencontres de Jésus dans les évangiles synoptiques, Paris, Cerf, 2012.