(Ds 12:1-13; Mt 14:22-36)
Bài đọc 1 thuật lại cho chúng ta việc bà Miriam và ông Aharon phản đối việc ông Môsê lấy một người đàn bá xứ Cút làm vợ. Từ việc phản đối đó, họ trở nên “ganh tị” với Môsê về việc ông có mối tương quan mật thiết với Đức Chúa, Đấng xem ông là “người hiền lành nhất đời” (Ds 12:3). Trước sự ganh tị của Miriam và Aharon, Đức Chúa đã khẳng định cho họ biết Môsê là vị ngôn sứ của Ngài: “Hãy nghe Ta nói đây! Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ, thì Ta, Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng. Nhưng với Môsê tôi tớ Ta thì khác: tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng Đức Chúa, nó được ngắm nhìn. Vậy tại sao các ngươi không sợ nói động đến Môsê, tôi tớ Ta?” (Ds 12:6-8). Những lời này khuyến cáo chúng ta về lối sống hay ganh tị, so sánh. Mỗi người được Thiên Chúa tuyển chọn cho một nhiệm vụ khác nhau. Chúng ta cần tập trung vào nhiệm vụ của mình và hoàn thành chúng cách tốt nhất. Chúng ta không cần phải “tiếng to tiếng nhỏ” phê bình, chỉ trích hoặc nói xấu anh chị em của mình khi họ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của họ. Đừng đánh mất tập trung vào Chúa khi làm việc.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Câu chuyện này cũng được Thánh Máccô (6:45-52) và Thánh Gioan (6:15-21). Câu chuyện bắt đầu với việc kể ra những hoạt động của Chúa Giêsu sau phép lạ hoá bánh ra nhiều: “Sau khi dân chúng được ăn no nê, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (Mt 14:22-25). Chúa Giêsu nói các môn đệ đi sang bờ bên kia, đó là địa hạt của dân ngoại. Chi tiết này giới thiệu những sự kiện sẽ xảy ra sau khi Chúa Giêsu lên thuyền và cùng với các môn đệ đi qua bờ bên kia. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là người giải tán đám đông chứ không phải các môn đệ vì họ là đàn chiên thuộc về Ngài. Ngài sai họ về nhà của mình, còn Ngài thì “về nhà” của mình để gặp gỡ Cha của Ngài trong giây phút cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu chính là khuôn mẫu cho người Kitô hữu. Ngoài những thời khắc cầu nguyện chung cùng với cộng đoàn, người Kitô hữu được mời gọi dành những khoảng thời gian thinh lặnng trong việc cầu nguyện cá nhân cùng với thiên nhiên trước Thiên Chúa. Chính trong khi cầu nguyện, Chúa Giêsu nhìn thấy chiếc thuyền của các môn đệ bị sóng đánh và Ngài đã đến với họ. Trong bối cảnh này, gió mạnh ám chỉ đến những mãnh lực chống đối của thế gian. Hình ảnh Chúa Giêsu đi trên mặt nước để đến với các môn đệ chỉ rõ Ngài có quyền năng trên các mãnh lực chống đối của thế gian. Ở đây chúng ta thấy có sự ảnh hưởng truyền thuyết của người Canaan và của Cựu Ước, đó là Đức Chúa chiến thắng sóng biển của sự chết (x. Tv 77:19; Job 9:8; 38:16; Is 43:16).
Khi Chúa Giêsu đến trong lúc giông bão, các môn đệ không nhận ra Ngài, nhưng Chúa Giêsu trấn an họ là chính Ngài luôn bên cạnh họ trong những lúc khó khăn trong cuộc sống: “Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14:26-27). Các môn đệ đã không nhận ra Chúa Giêsu trong đêm bão giông của cuộc sống. Nỗi sợ hãi đã làm họ mất niềm tin vào Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu trấn an họ, để họ không còn sợ hãi mà tin vào Ngài. Đây chính là điều Chúa Giêsu làm cho các môn đệ, đó là trấn an họ khi họ sợ hãi. Ngài khẳng định với họ rằng: “Chính Thầy đây!” những lời này chỉ rõ việc Chúa Giêsu chia sẻ trong quyền năng Thiên Chúa để cứu con người (x. Tv 18:17-18; 144:7; Xh 3:14; Is 43:10; 51:12). Nhiều lần Chúa Giêsu cũng đến với chúng ta trong những giông bão cuộc đời. Chúng ta cũng đã từng không nhận ra Ngài. Nhưng tiếng Ngài luôn vang lên nói chúng ta đừng sợ. Đừng sợ sóng gió trong cuộc sống, vì Chúa Giêsu luôn ở bên chúng ta, cầu nguyện cho chúng ta trong những lúc đó.
Câu chuyện chuyển từ phản ứng của các môn đệ đến phản ứng của một mình Thánh Phêrô trước sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Chúng ta viết lại cuộc đối thoại này như sau:
Phêrô: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.”
Chúa Giêsu: “Cứ đến!”
[Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm]
Phêrô: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”
Chúa Giêsu [liền đưa tay nắm lấy ông]: “Hỡi kẻ kém lòng tin! Sao lại hoài nghi?”
Thánh Mátthêu đã thêm vào cuộc đối thoại này (câu 28-31) nhằm mục đích nói lên vị trí cao trọng của Phêrô. Hành động của Phêrô không có ý nghĩa gì trừ khi chúng ta liên kết nó với một tình yêu được thúc đẩy và một đức tin bị yếu đi vì nghi ngờ. Các yếu tố đặc trưng và cá nhân độc nhất vô nhị quyện chặt vào nhau ở đây (x. Ga 20:28-29).
Câu chuyện trở lại với các môn đệ, những người trong thuyền: “Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: ‘Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!’” (Mt 14:32-33). Khi đã thấy Chúa Giêsu làm cho sóng lặng, các môn đệ hiểu được Ngài được chia sẻ trong quyền năng của Thiên Chúa nên đã “bái lạy” Ngài, đây là hành vi tôn thờ và tuyên xưng rằng Ngài là Con Thiên Chúa. Chi tiết này trái ngược với kết thúc của Thánh Máccô, ở đây các môn đệ đã hiểu và tin; họ đã tiên báo trước lời tuyên xưng của Phêrô trong 16:16. Tóm lại, toàn bộ câu chuyện liên quan đến phép lạ về thiên nhiên và được xếp loại như là một sự hiển linh qua việc chế ngự mãnh lực của biển khơi. Câu chuyện này giống với câu chuyện làm biển lặng trong 8:18-27. Theo các học giả Kinh Thành, đây chính là dụ ngôn nói về Giáo Hội bị bao vây và là biểu tượng của một đức tin vững mạnh, đi ra khỏi vùng chưa biết, nhưng có thể bị tổn thương [thương tổn]. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta rằng trong sóng gió cuộc đời, dù có bị tổn thương, nhưng hãy vững tin vào Chúa luôn.
Bài Tin Mừng kết thúc với sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu: “Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghennêxarét. Dân địa phương nhận ra Đức Giêsu, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Người. Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo choàng của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được cứu chữa” (Mt 14:34-36). Chúng ta cũng tìm thấy đoạn này trong Tin Mừng Thánh Máccô (6:53-56). Theo các học giả Kinh Thánh, đây chính là bản tóm tắt mà qua đó Thánh Mátthêu đã rút ngắn trình thuật của Thánh Maccô. Phần ngắn gọn này tổng quát hoá hành động chữa lành của Chúa Giêsu thành sự kiện xã hội và cung cấp một sự chuyển tiếp để thảo luận về luật thanh sạch mang tính nghi lễ sẽ được thuật lại trong phần kế tiếp. Điều đáng để chúng ta lưu ý là hành động “sờ vào tua áo choàng” của Chúa Giêsu. Qua việc sờ đến tua áo của Ngài, dân chúng tuyên xưng đức tin của mình một cách mặc nhiên, nhưng đồng thời, từ cái nhìn của những người Pharisêu, trong một vài trường hợp họ đã truyền sự không thanh sạch (ô uế) của họ cho Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi đến với Chúa Giêsu để chạm đến Ngài hầu những bệnh tật trong chúng ta được chữa lành.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB