Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Hai sau Chúa Nhật XXX Thường Niên – Đừng Trì Hoãn Làm Việc Tốt

(Rm 8:12-17; Lc 13:10-17)

Con người hôm nay thường đánh giá nhau dựa trên những giá trị vật chất. Những giá trị tinh thần trở thành những “ước muốn không muốn đạt đến của con người.” Bên cạnh đó, chúng ta cũng thường hành động theo bản tính tự nhiên, theo tính xác thịt của mình. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 chỉ ra cho chúng ta biết rằng chúng ta không mang nợ tính xác thịt, vì vậy chúng ta không nên sống theo tính xác thịt [hành xử theo bản tính tự nhiên] (x. Rm 8:12). Chỉ khi sống nhờ Thần Khí, chúng ta mới có thể “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13). Khi được Thần Khí hướng dẫn, chúng ta sẽ nhận ra nhân phẩm cao quý của mình, đó là được làm con Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Khi được làm con, chúng ta “cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:17). Những lời này là những lời khích lệ cũng là thác đố cho mỗi người chúng ta. Khích lệ vì chúng ta được làm con Thiên Chúa và đồng thừa kế với Đức Kitô; thách đố vì chúng ta được mời gọi sống xứng đáng với danh hiệu chúng ta được lãnh nhận. Hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình, đó là sẵn sàng chịu đau khổ với Đức Kitô hầu được chia sẻ vinh quang của Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật. Đây là một trong những minh hoạ về bản chất của Nước Thiên Chúa. Chúng ta chỉ tìm thấy câu chuyện này trong Tin Mừng Thánh Luca. Qua câu chuyện này, Thánh Luca chỉ ra ý nghĩa của Nước Thiên Chúa được diễn tả qua hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: Phần 1 (Lc 13:10-13) thuật lại việc Chúa Giêsu chữa người phụ nữ và phần 2 (Lc 13:14-17) là cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc Chúa Giêsu chữa bệnh vào ngày sabát.

Điểm đầu tiên làm chúng ta lưu ý là việc người phụ nữ xuất hiện trong hội đường khi Chúa Giêsu giảng dạy ở đó: “Khi ấy, Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13:10-11). Những lời này cho thấy bà đến đây để lắng nghe Chúa Giêsu và có thể với hy vọng là được Chúa Giêsu chữa lành. Tuy nhiên, việc Thánh Luca đặt bà hiện diện ở đây để nói lên rằng Nước Thiên Chúa không chỉ dành cho người nam. Những người “bé mọn” như bà là những người đã đáp lại quyền lực của Nước Thiên Chúa đang hoạt động trong bà qua việc tôn vinh Thiên Chúa sau khi được Chúa Giêsu chữa lành: “Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: ‘Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!’ Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 13:12-13). Phản ứng của bà hoàn toàn trái ngược với phản ứng của những người lãnh đạo tôn giáo, là những người có thể trở nên mù loà trước sự hiện diện của Nước Thiên Chúa để rồi không sám hối để được cứu độ. Chúng ta thấy điều này trong phản ứng của ông trưởng hội đường. Đây cũng là phản ứng của nhiều người trong chúng ta khi thấy người khác được “may mắn” hơn mình. Phản ứng khó chịu và ghen ghét nhiều lần làm chúng ta bị mù trước sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở bên và kêu mời chúng ta trở về với Ngài.

Phần 2 trình bày cho chúng ta cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc chữa lành trong ngày sabát. Như chúng ta đã nói ở trên, khi thấy Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ, “ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày sabát” (Lc 13:14). Dù tức tối với Chúa Giêsu, nhưng ông trưởng hội đường không dám nói trực tiếp với Chúa Giêsu mà nói với đám đông: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabát!” Thay vì đám đông trả lời thì Chúa Giêsu lên tiếng chỉ trích không chỉ ông trưởng hội đường mà cả những người theo ông [và cả chúng ta, những người có thái đội tức tối hoặc ghen tức khi thấy người khác nhận được điều tốt lành]: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sabát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? Còn bà này là con cháu ông Ápraham, bà ấy bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?” (Lc 13:15-16). Trong những lời này, ngoài việc chỉ trích những người đạo đức giả, Chúa Giêsu còn khẳng định rằng những người nữ cũng là con cháu Ápraham, cũng được hưởng những gì đã hứa cho con cháu ông chứ không chỉ những người nam mới được hưởng lời hứa đó. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn khẳng định ý nghĩa của ngày sabát là để làm điều thiện, làm điều tốt cho người khác. Nói cách khác, điều Chúa Giêsu làm trong ngày sabát thật sự mang một ý nghĩa thần học sâu xa, đó là giải phóng con người khỏi xiềng xích của Xatan. Mục đích của ngày sabát được hoàn thành không phải bởi việc cấm không cho làm những việc tốt, mà là khuyến khích làm việc tốt cho anh chị em mình. Sự chân thật trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu đã làm cho “tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện” (Lc 13:17). Chi tiết này khuyến cáo chúng ta về việc chúng ta xem ngày sabát (Chúa Nhật) có ý nghĩa gì đối với mình. Nhiều người trong chúng ta chủ yếu đến tham dự thánh lễ trong ngày Chúa Nhật để tránh phạm tội “không đi lễ ngày Chúa Nhật,” nhưng trong lòng lại chứa đựng những hờn ghen, những ý tưởng không hay không tốt về anh chị em mình. Tệ hơn là nhiều khi chúng ta sử dụng ngày Chúa Nhật để gặp gỡ nhau hầu nói xấu người này người nọ trong cộng đoàn. Ngày Chúa Nhật [mỗi ngày vì thời gian thuộc về Thiên Chúa] là ngày để nghĩ tốt, nói tốt và làm tốt cho anh chị em mình.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB