
(Rm 9:1-5; Lc 14:1-6)
Trong bài đọc 1, Thánh Phaolô trình bày cho chúng ta nghe nguyên nhân “nỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9:2) của Ngài. Ngài ưu phiền và đau khổ vì nhìn thấy anh chị em đồng bào của Ngài không tin nhận Chúa Giêsu. Ngài sẵn sàng cam lòng bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô miễn sao các anh chị em của ngài là những người “đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ” (Rm 9:4-5). Những lời này giúp chúng ta nhận ra tâm tình của Thánh Phaolô là mong ước người DoThái nhận ra rằng họ được đặc ân lớn lao, đó là Đức Kitô cũng cùng nòi giống với họ. Họ phải hãnh diện vì được cùng chia sẻ cùng huyết thống với Ngài. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta về đặc ân lớn lao đã nhận được, đó là chúng ta cũng cùng huyết thống với Đức Kitô vì mỗi khi chúng ta rước Ngài trong bí tích Thánh Thể, chúng ta trở nên một với Ngài. Chúng ta không hãnh diện được trở nên một với Chúa Giêsu sao? Nếu hãnh diện, sao chúng ta không sống một cuộc sống mới trong Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta một sự kiện khác về việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày sabát. Câu chuyện này rất đặc trưng của Thánh Luca. Lần này việc chữa lành xảy ra trong nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu: “Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người” (Lc 14:1). Trong những lời này chúng ta thấy mục đích mời Chúa Giêsu đến dùng bữa là để dò xét người. Thái độ dò xét này cũng là thái độ chúng ta thường có với anh chị em mình. Nhiều khi chúng ta dò xét bắt lỗi từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động của anh chị em mình để lên án. Cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn khi chúng ta tìm niềm vui nơi sự hiện diện của anh chị em mình hơn là để ý dò xét và bắt lỗi người khác. Một bữa ăn ngon là bữa ăn với con tim rộng mở và tiếng cười chân thật chứ không phải với ánh mắt dò xét và thái độ lên án.
Chi tiết đáng để chúng ta lưu ý là sự hiện diện của người phù thũng trong bữa cơm: “Và kìa trước mặt Đức Giêsu, có một người mắc bệnh phù thũng” (Lc 14:2). Sự hiện diện của người phù thũng trong bữa tiệc là câu trả lời cho những vấn đề đang xảy ra trong cộng đoàn Thánh Luca đang phải đối diện với những người Pharisêu, đó là họ có nên ngồi đồng bàn với những người ô uế hay không (x. Lc 7:36-50); điều gì làm một người thanh sạch (x. 11:37-54); ai được mời đến ngồi chung bàn với người Kitô hữu (x. Lc 14:1-24). Một cách cụ thể, sự hiện diện của nguời mắc bệnh phù thũng ám chỉ việc mở rộng vòng tay đón nhận tất cả mọi người vào trong bàn tiệc của người Kitô hữu. Điều làm chúng ta được thanh sạch hay tôn vinh không phải là mình ngồi bàn với ai, nhưng là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bàn tiệc. Chính Chúa Giêsu là Đấng làm cho chúng ta thanh sạch và liên kết chúng ta lại trong tình yêu. Liệu chúng ta có để cho Chúa Giêsu ngồi bàn khi chúng ta mời anh chị em mình đến dùng bữa với chúng ta không?
Trong bữa tiệc này không chỉ có người mắc bệnh phù thũng mà còn cả những nhà thông luật và những người Pharisêu. Chúa Giêsu hỏi họ: “Có được phép chữa bệnh ngày sabát hay không?” (Lc 14:3). Là những người biết luật rất rõ, nhưng trước câu hỏi của Chúa Giêsu, “họ làm thinh.” Chúng ta biết chắc là các nhà thông luật biết luật rất chắc, nhưng họ làm thinh có thể vì họ chưa đọc thấy điều này trong sách luật vì họ chỉ lưu tâm đến những việc không được phép làm trong ngày sabát mà không hiểu ý nghĩa nằm sau những điều cấm này. Việc thinh lặng của họ chỉ cho thấy chỉ mình Chúa Giêsu mới biết được ý nghĩa đích thực của ngày sabát, ý nghĩa đích thực nằm sau những điều cấm không được thực hiện, đó là để chúng ta có được tâm tình tạ ơn về những ơn lành chúng ta đã nhận được [trong tuần] và chia sẻ những ơn lành đó cho anh chị em mình. Nói cách khác, ngày sabát là để làm điều thiện, để giải phóng khỏi nô lệ Xatan: “Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.” Chúa Giêsu khẳng định điều này trong câu hỏi: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sabát?” (Lc 14:5). Chi tiết này ám chỉ đến việc Chúa Giêsu là Chúa của ngày sabát. Và một lần nữa họ lặng thinh vì “không thể đáp lại những lời đó” (Lc 14:6). Đến đây, họ lặng thinh có thể bây giờ họ mới hiểu được ý nghĩa đích thật của ngày sabát. Chúng ta thế nào? Chúng ta sử dụng ngày sabát (Chúa Nhật) để làm việc tốt, để nghĩ tốt, nói tốt cho anh chị em mình hay chúng ta sử dụng những giờ rảnh (vì kiêng việc xác!) để nghĩ xấu, nói xấu và làm những điều tổn thương anh chị em mình?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
