Cầu Nguyện Cho Các Linh Hồn: Một Việc Làm Bác Ái Thiêng Liêng

Cầu nguyện cho các linh hồn: Một việc làm bác ái thiêng liêng

 

TGPSGNcRegister  — Bài viết sau đây do Đức Ông Roger Landry chia sẻ, ngài là linh mục của Giáo phận Fall River (MA), là Giám đốc Quốc gia của các Hiệp Hội Giáo hoàng về Truyền giáo. Ngài nhận định đức tin Công giáo không dạy rằng mọi người sau khi chết đều lập tức được lên thiên đàng. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã ly trần vẫn cần đến sự trợ giúp của chúng ta, và lời cầu nguyện cùng các hy sinh của chúng ta thực sự có thể giúp họ.

Trong suốt tháng Mười Một, người Công giáo đặc biệt chuyên chăm thực thi việc bác ái thiêng liêng nhân hậu nhất: cầu nguyện cho các linh hồn thân nhân.

Chúng ta thực hiện điều này cách đặc biệt vào ngày 2 tháng 11, Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời (Lễ Các Đẳng), vốn năm nay trùng vào Chúa nhật. Tuy nhiên, Giáo Hội không chỉ tưởng nhớ các linh hồn vào ngày này, nhưng còn dâng các việc cầu nguyện – hy sinh cho họ suốt cả năm, cách riêng trong tháng Mười Một.

Chúng ta cầu nguyện cho các đẳng vì tin vào ba chân lý đức tin sau đây: thứ nhất, trái ngược với quan niệm phổ biến — và đầy nguy hiểm — cho rằng hễ chết là “đi đến một nơi tốt đẹp hơn”, đức tin Công giáo không tin rằng mọi người chết đều vào thiên đàng, nhất là ngay lập tức; thứ hai là những người đã ly trần có thể cần đến sự trợ giúp của chúng ta; thứ ba là lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta thực sự hữu ích cho họ.

Liên quan đến hai chân lý đầu tiên, Giáo Hội dạy rằng để được vào thiên đàng, linh hồn phải hoàn toàn gắn bó với Thiên Chúa và tránh xa tội lỗi cùng mọi sự không thuộc về Thiên Chúa. Sách Khải Huyền quả quyết: “Không có gì ô uế được vào Nước Trời” (Kh 21,27).

Nhiều người khi còn sống và khi qua đời vẫn chưa đạt đến sự thánh thiện tinh luyện ấy; họ cần được tẩy luyện trước khi bước vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa là mọi sự trong mọi người. Trạng thái thanh luyện này đã được Giáo Hội truyền thống gọi là “Luyện Ngục”, từ tiếng Latinh purgare, nghĩa là “thanh luyện”.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong thông điệp về niềm hy vọng Kitô giáo, cho rằng “đại đa số con người” khi chết đều cần sự thanh luyện này và vì thế họ bước vào luyện ngục. Với niềm hy vọng ấy, chúng ta cầu nguyện cho họ, bởi trong đức tin, chúng ta tin rằng lời cầu nguyện của chúng ta thực sự giúp ích cho họ trong quá trình thanh luyện.

Trong Sách Macabê quyển II, được biên soạn khoảng 140 năm trước Chúa Giáng Sinh, chúng ta thấy dân Do Thái đã dâng hy lễ trong Đền Thờ để cầu cho những người lính Do Thái tử trận, những người đã phản bội Chúa vì giấu trong áo choàng các ngẫu tượng chiếm được từ quân thù ngoại giáo.

“Nghĩ đến việc cầu nguyện cho những người đã chết là một việc lành thánh, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,45). Kế thừa truyền thống đạo đức ấy của Israel, Giáo Hội tiếp tục cầu xin cho các linh hồn được thanh tẩy khỏi những tội nhẹ.

Chúng ta không bao giờ biết chắc người thân của mình có mang trong lòng những tội lỗi chưa được bộc lộ vì yếu đuối hay sợ hãi hay không. Và chúng ta có thể làm điều quý giá hơn dân Macabê rất nhiều: cầu nguyện cho họ trong Thánh Lễ.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta: “Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã coi trọng việc nhớ đến những người đã qua đời và dâng các lời cầu nguyện cho họ, nhất là hy tế Thánh Thể, để họ được thanh luyện và sớm hưởng nhan thánh Chúa” (GLCG 1032).

Không có lời cầu nguyện nào cao trọng hơn Thánh Lễ – nơi chúng ta kết hợp lời khẩn nguyện của mình với chính Hy Lễ cứu độ của Đức Kitô, được dâng một lần cho tất cả, trong Bữa Tiệc Ly và trên Thập Giá.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong bài huấn dụ Kinh Truyền Tin Lễ Các Đẳng năm 2014: “Truyền thống của Giáo Hội luôn thôi thúc chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, đặc biệt bằng việc dâng Thánh Lễ cho họ. Đó là sự trợ giúp thiêng liêng tốt nhất mà chúng ta có thể dành cho các linh hồn, nhất là những linh hồn bị bỏ quên hơn cả. Nền tảng của các lời cầu nguyện chuyển cầu cho các linh hồn chính là sự hiệp thông trong Nhiệm Thể, và sự hiệp thông ấy được biểu lộ cách mạnh mẽ nhất trong Thánh Lễ.”

Trong suốt nhiều thế kỷ, Giáo Hội vẫn tôn kính và duy trì việc cầu nguyện cho những người đã qua đời trong Thánh Lễ. Trong các Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta chuyển cầu cho tất cả “những người đã ra đi trước chúng con với dấu chỉ đức tin” (Kinh Nguyện Thánh Thể I), “những người đã an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại và mọi người đã qua đời trong tình thương của Chúa” (Kinh Nguyện Thánh Thể II), “những người đã đẹp lòng Chúa khi lìa bỏ cõi đời này” (Kinh Nguyện Thánh Thể III), và “những người mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).

Cách đặc biệt, hơn một thiên niên kỷ đã qua, người Công giáo vẫn còn xin các linh mục dâng Thánh Lễ cầu cho linh hồn của từng người quá cố.

Điều quan trọng là phải hiểu cho đúng về mặt thần học những gì liên quan đến thực hành này. Bởi vì Hy tế Thánh Lễ là việc tái diễn lời cầu xin cứu độ của Đức Kitô trong Bữa Tiệc Ly và trên đồi Canvê, nên chúng ta biết rằng hoa trái của Hy tế ấy mang lại lợi ích cho toàn thể Giáo Hội cách phổ quát.

Những ai hiện diện và tham dự Thánh Lễ cũng lãnh nhận những ơn riêng biệt, khác với những người không tham dự. Nhưng cũng có một ý chỉ mang tính mục vụ hay cá nhân trong Thánh Lễ mà linh mục hướng tới để cầu nguyện cho một người hay một mục đích cụ thể, như ý lễ được một tín hữu ngỏ lời xin linh mục vì lòng bác ái mà dâng Thánh Lễ dành cho ý chỉ ấy.

 

Theo truyền thống, một tín hữu khi xin lễ thường tự nguyện trao cho linh mục cử hành Thánh Lễ một khoản nào đó. Khoản này thường được gọi là “bổng lễ”. Qua nhiều thế kỷ, phần dâng ấy được hiểu như việc bày tỏ lòng biết ơn đối với linh mục, vì ngài đã nhận lời cho ý chỉ cụ thể đó trong nhiều ý chỉ khác. Khoản dâng này thường rất nhỏ — ngày nay tại Hoa Kỳ thông thường là 10 đô-la — nhưng đối với nhiều linh mục, đó thường là nguồn thu nhập duy nhất để họ trang trải đời sống và chăm sóc người nghèo được giao phó cho họ.

Tại nhiều giáo phận và vùng truyền giáo hiện nay, nếu may mắn, vị linh mục sẽ nhận được các bổng lễ, thường là từ xa gửi đến, đây là nguồn thu nhập duy nhất của linh mục. Các giám mục tại những miền truyền giáo nhiều khi phải đảm nhận vai trò như những người hành khất, ngỏ lời xin bổng lễ từ các văn phòng cấp quốc gia và giáo phận của Các Hiệp Hội Giáo Hoàng về Truyền Giáo, hoặc từ tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ và những cơ quan giáo hoàng uy tín khác trên toàn cầu, để nâng đỡ hàng giáo sĩ của mình.

Với tư cách là giám đốc quốc gia của Các Hiệp Hội Giáo Hoàng về Truyền Giáo tại Hoa Kỳ, mỗi tuần tôi nhận được nhiều email từ các giám mục tại những vùng truyền giáo xin gửi cho họ các bổng lễ. Vì số lượng yêu cầu quá lớn, tôi thường gửi một lần 500 hoặc 1.000 ý lễ; các giám mục rất biết ơn vì điều đó. Nhưng khi họ có đến vài trăm linh mục cần được chăm lo, thì số lượng ấy chỉ tương đương với vài Thánh Lễ cho mỗi linh mục. Một giám mục Phi Châu cho tôi biết ngài có gần 800 linh mục triều trong giáo phận truyền giáo rộng lớn của ngài — thuộc một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Tôi đã gửi cho ngài 5.000 ý lễ, nhưng điều đó chỉ đủ để mỗi linh mục trong giáo phận có khoảng một tuần bổng lễ mà thôi.

Tôi còn nhớ đã nói chuyện với một vị hồng y tại một vùng truyền giáo về việc các linh mục của ngài chỉ sống nhờ bổng lễ. Ngài bảo tôi: “Thưa Đức Cha, tôi cũng vậy mà.” Tôi hỏi: “Ngài sống với khoảng 3.650 đô-la một năm thôi sao?” Ngài cười và nói: “Tôi nhận bổng lễ bằng đồng euro, nên gần 4.000 đô-la. Nhưng phần lớn số đó được dùng để chăm lo cho một số gia đình nghèo ở thủ đô, để trợ giúp các giáo lý viên và nhân viên, cùng những việc tương tự. Tôi cố gắng tự sống với khoảng 500–600 đô-la một năm.”

Việc có các linh mục, giám mục và hồng y trong các miền truyền giáo sẵn sàng cử hành Thánh Lễ là một sự trợ giúp lớn lao cho các giáo xứ năng động tại Hoa Kỳ, nơi thường không có đủ các Thánh Lễ Chúa nhật và Thánh Lễ hằng ngày để đáp ứng nhu cầu xin lễ của giáo dân cầu cho người thân đã qua đời, và nơi mà thời gian chờ để có một Thánh Lễ được công bố có thể kéo dài đến một năm hoặc hơn. Vì thế, các cha sở, các giám mục và nhiều tín hữu đã hướng về các miền truyền giáo, ý thức rằng Thánh Lễ được dâng tại một trạm truyền giáo nhỏ giữa rừng sâu cũng có giá trị thiêng liêng như khi được cử hành tại giáo xứ quê hương của họ.

Giáo dân cũng có thể xin các linh mục truyền giáo trực tiếp dâng Thánh Lễ cho mình (qua trang PontificalMissions.org), dù là từng Thánh Lễ riêng lẻ, các tuần cửu nhật, hay thậm chí là các Thánh Lễ Gregorian, một truyền thống có từ thời Thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả. Chính ngài đã sắp xếp để dâng 30 Thánh Lễ liên tiếp cho một tu sĩ đã qua đời tên là Giút-tút (Justus), thuộc đan viện do ngài sáng lập tại Rôma. Sau khi qua đời, Giút-tút được phát hiện là đã phạm một tội nặng chống lại lời khấn khó nghèo. Sau khi 30 Thánh Lễ liên tiếp được dâng, Giút-tút hiện về trong giấc mơ của một tu sĩ khác, loan báo rằng ông đã được Thiên Chúa thương thanh luyện khỏi tội lỗi và được vào hưởng niềm vui vĩnh cửu với Chúa. Ở Hoa Kỳ, hầu như không thể để các linh mục giáo xứ dâng 30 Thánh Lễ liên tục như vậy, nhưng các linh mục tại miền truyền giáo có thể làm được và họ rất biết ơn khi nhận được những ý lễ như thế.

Trong tháng mà Giáo Hội hướng lòng cách đặc biệt về các linh hồn thân yêu đã qua đời, đây cũng là dịp để nối dài tinh thần Tháng Truyền Giáo qua việc liên đới với các linh mục đang phục vụ nơi truyền giáo, để nhờ họ trợ giúp chúng ta trong những hành vi đạo đức bền bỉ dành cho những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.

Tác giả:Msgr. Roger Landry 

 PX. Hữu Sang (TGPSG) biên dịch từ NcRegister