
(1 Mcb 1:10-15.41-43.54-57.62-64; Lc 18:35-43)
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe về một thời gian lịch sử đầy khó khăn của dân Israel trong việc thờ phượng Đức Chúa. Nói theo lời của tác giả sách thứ nhất Macabê, dân Israel phải đối diện với “một cơn thịnh nộ lớn đe doạ” (1 Mcb 1:64). Khi vua Antiôkhô Êpiphanê, con vua Antiôkhô lên ngôi, vì là một “mầm mống tội lỗi” (1 Mcb 1:10), vua ra “chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải nhập thành một dân duy nhất và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc đều chấp hành lệnh vua” (1 Mcb 1:41-42). Đứng trước lệnh vua, con cái Israel bị chia rẽ: “Một số người trong dân vội đi yết kiến nhà vua. Vua đã cho phép họ sống theo các tập tục của dân ngoại. Thế là họ đã xây một thao trường ở Giêrusalem theo thói các dân ngoại; họ huỷ bỏ dấu vết cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để mang chung một ách với dân ngoại và bán mình để làm điều dữ” (1 Mcb 1:13-15). Hơn thế nữa, “họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm luật sabát” (1 Mcb 1:43). Nhưng ngược lại, “nhiều người trong dân Israel vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những thức ăn ô uế. Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết” (1 Mcb 1:62-63). Chúng ta cũng chứng kiến điều này trong ngày hôm nay. Niềm tin Kitô giáo đang bị đe doạ bởi nhiều học thuyết khác nhau được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo quốc gia và những ý thức hệ. Đứng trước những đe doạ này [nhất là chủ nghĩa tục hoá], nhiều người đã chạy theo để loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Nhưng cũng rất nhiều người đứng vững trong đức tin, sống trọn vẹn cho Chúa và cho anh chị em mình. Chúng ta thuộc về thành phần nào trong hai thành phần trên?
Điểm đầu tiên đáng để chúng ta lưu ý trong bài Tin Mừng hôm nay là nhân vật “người mù.” Thánh Luca tuyên bố hai lần trong Tin Mừng mình rằng sứ vụ của Chúa Giêsu là mang ánh sáng cho những người đui mù. Đây là dấu hiệu sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa cho dân Ngài (x. Lc 4:18; 7:22). Cũng hai lần Thánh Luca dạy rằng chúng ta phải mời những người đui mù chia sẻ trong bàn tiệc của chúng ta (x. Lc 14:13,21). Chi tiết này mời gọi chúng ta, là những người môn đệ của Chúa Giêsu, trở nên những người mang ánh sáng đến cho anh chị em mình và trở nên những người đón nhận những anh chị em không may mắn như chúng ta. Có hai loại đui mù, đó là đui mù thể lý và đui mù thiêng liêng. Nhiệm vụ của những người môn đệ Chúa Giêsu là đem ánh sáng không chỉ cho những người đui mù thể lý, mà quan trọng nhất là những anh chị em đui mù về thiêng liêng. Chúng ta phải trở nên ánh sáng cho họ bằng một đời sống gương mẫu. Hãy dẫn anh chị em mình đến với ánh sáng [Thiên Chúa], chứ đừng đẩy họ vào trong bóng tối. Hãy mang ánh sáng, chứ đừng mang bóng tối đến trên cuộc đời của người khác.
Trong bài Tin Mừng này, Thánh Luca dùng hình ảnh người mù để nói về lòng thương xót của Chúa Giêsu cho những người kém may mắn để kết thúc trình thuật về hành trình của Ngài và tóm kết sứ vụ của Chúa Giêsu cho những người bị loại ra bên lề xã hội. Khi đọc câu chuyện này, chúng ta thấy có một đối nghịch giữa sự kiên trì cầu xin và đức tin của người mù so với các môn đệ (x. Lc 18:31-34). Sự đối nghịch này chỉ ra rằng qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ về tầm quan trọng của ánh sáng đức tin. Chính ánh sáng này mở mắt người mù để nhận ra Chúa Giêsu là ai và cuối cùng theo Ngài. Điều này được diễn tả trong chi tiết là anh gọi Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít” (Lc 18:38), thay vì gọi “Giêsu Nadarét” như người ta nói cho anh (x. Lc 18:37). Điều này đưa chúng ta về với câu trả lời cá biệt mà Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: Người ta bảo thầy là ai? Còn anh em, anh em bảo thầy là ai? Người mù nghe người ta bảo Ngài là Giêsu Nazarét, nhưng đối với anh [cách cá vị], Ngài là “Con Vua Đavít.” Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về bổn phận phải “cá vị hoá” đức tin của mình. Nói cách khác, chúng ta phải biến những gì chúng ta nghe về Chúa Giêsu thành xương thành thịt của mình. Để rồi, Ngài không còn trở nên xa lạ trong một mớ kiến thức, nhưng trở thành gần gũi với chúng ta trong từng nhịp sống.
Một chi tiết khác làm chúng ta suy gẫm là việc nhiều người quát nạt anh mù: “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi.” Nhưng anh mù không để cho việc quát nạt của người khác dập tắt ánh sáng đức tin của mình vào Chúa Giêsu. Nên anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Lc 18:39). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta để cho người khác dập tắt khao khát được gặp, được phục vụ Chúa của chúng ta. Một cách cụ thể, chúng ta để cho những lời nói “vô nghĩa” của người khác lấy đi niềm vui có Chúa của chúng ta. Đừng để người khác lấy đi khát vọng yêu thương Chúa và được Chúa yêu thương. Càng bị người đời ngăn cản đến với Chúa bao nhiêu, chúng ta phải càng hô to lên bấy nhiêu, để tiếng kêu của chúng ta vượt thắng “tiếng la” của người khác và vọng đến tai Chúa Giêsu.
Cuối cùng, hành vi của anh mù sau khi thấy Chúa Giêsu đáng để chúng ta học hỏi: “Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa.” Chính qua ba hành động này, anh đã làm “toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 18:43). Việc đầu tiên sau khi nhìn thấy được là “theo Người.” Đây là hành vi của người môn đệ. Chi tiết này mời gọi chúng ta trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều kỳ công Thiên Chúa làm trong ngày sống của chúng ta. Những kỳ công này phải dẫn chúng ta đến theo Chúa Giêsu. Qua hành động “theo Chúa Giêsu” [trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài] mà chúng ta làm người khác cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa. Thật vậy, hãy sống thế nào để đời sống của chúng ta trở nên lý do cho người khác ngợi khen Thiên Chúa chứ không tôn vinh chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
