
Tháng 11 là tháng Giáo hội Công giáo dành để cầu nguyện cho những tín hữu đã ly trần và mời gọi chúng ta coi thời gian này như một lời nhắc nhở mình sẽ chết – memento mori.
Văn hóa của chúng ta không thích tập trung vào cái chết. Vì thiếu một đức tin có thật và có thực chất vào Thiên Chúa, thế giới hiện đại dao động giữa một thứ chủ nghĩa vô thần hư vô, coi cái chết là sự hủy diệt, và một thứ chủ nghĩa tâm linh mơ hồ, vốn khẳng định khả năng có sự sống sau khi chết nhưng lại để cho khả năng đó quá mong manh đến mức khó có thể chứa đựng bất cứ hy vọng lớn lao nào. Chủ nghĩa tâm linh đó cũng không tạo ra mối liên hệ thực sự nào giữa đời sau và đời này, ngoài một vài quan niệm cảm tính về việc được “thưởng” cách nào đó ở đời sau vì đã là một “người tốt” ở đây và bây giờ.
Nhưng Kitô giáo khác với tất cả các tôn giáo khác. Cái chết của Chúa Kitô và những gì cái chết đó mang lại là trọng tâm đức tin của chúng ta. Thánh giá là biểu tượng trung tâm trên bàn thờ và sau bàn thờ của chúng ta. Và chúng ta được dạy phải xem những đau khổ của chính mình, và sau đó là cái chết của chính mình, như là một “sự tham gia”, một cách huyền nhiệm nào đó, vào cái chết của Chúa Kitô.
Như Thánh Phaolô đã nói: “Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rôma 6: 4). Như thế, trong phép rửa tội, chúng ta được mai táng với Chúa Kitô và do đó, chúng ta cũng sẽ sống lại với Chúa Kitô. Điều này chứa đựng niềm hy vọng rằng, sau khi con người tội lỗi xưa cũ đã chết đi, bây giờ chúng ta sẽ mặc lấy tâm trí của Chúa Kitô và sống lại vinh quang.
Nhưng liệu chỉ có vậy thôi sao? Trong đức tin của chúng ta, quả thực có một niềm hy vọng chắc chắn về sự cứu rỗi. Nhưng chẳng phải trong thực tế hiện nay cái chết vẫn còn đeo bám và khiến chúng ta sợ hãi ít nhiều sao? Suy cho cùng, tất cả chúng ta vẫn là những thụ tạo sa ngã, và đối với hầu hết chúng ta, những ân sủng mà Chúa Kitô ban không dẫn đưa chúng ta đến mức độ hợp tác với ân sủng, mang lại cho chúng ta sự thánh hóa cần thiết để hoàn toàn bình an với cái chết như một thực tế. Chúng ta ngoan cố bám víu vào tội lỗi của chúng ta, và do đó, một số khía cạnh của cái chết vẫn còn làm chúng ta bị khuấy động.
Đặc biệt, điều ám ảnh chúng ta chính là tính tình cờ, hoàn toàn bất quy tắc của cái chết. Sự thống trị khủng khiếp của cái chết không cho chúng ta một khuôn mẫu ý nghĩa rõ ràng nào. Cái chết không hề tôn trọng bất cứ ai; nó dường như giáng xuống chúng ta một cách ngẫu nhiên và khó hiểu đến mức khiến chúng ta choáng váng vì dường như nó không có bất cứ nguyên tắc chỉ đạo mạch lạc nào. Điều này không thành vấn đề đối với người vô thần, bởi vì tính ngẫu nhiên như vậy chính là điều họ mong đợi.
Nhưng đối với Kitô hữu, những người tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự phục sinh, thì tính ngẫu nhiên của cái chết là một “vấn đề” thần học khó chịu, nhưng cũng là sự kích thích để suy ngẫm sâu xa hơn và do đó làm cho đức tin thêm sâu sắc.
Sự ngẫu nhiên như vậy, vốn thiếu vắng một mục đích có thể nhận ra là hợp lý, khiến tâm hồn chúng ta xáo trộn một cách sâu sắc. Đau khổ và cái chết của những trẻ em vô tội là điều khiến chúng ta trăn trở nhất.
Trẻ em vô tội chết mỗi ngày trong những hoàn cảnh kinh hoàng nhất: chiến tranh, bệnh tật, nạn đói, lạm dụng và tai nạn bất ngờ. Thế mà Adolf Hitler nhỏ con cưỡi chiếc xe ba bánh do Áo sản xuất vẫn vô tư lự như một cậu bé con, không hề hấn gì, và sống sót sau những làn đạn bom của Thế chiến thứ nhất. Hitler đã sống sót qua chiến tranh, trong khi Charles Péguy, nhà văn Pháp tuyệt vời, lại chết vì một viên đạn bắn vào đầu trong chính cuộc chiến đó.
Kết quả là tính ngẫu nhiên hiển hiện của cái chết dẫn đưa hàng triệu con người đến chỗ hoặc công khai nhận mình là vô thần, hoặc ít nhất là, thuận theo một thứ chủ trương phủ nhận kiểu bất khả tri, cho rằng bất cứ và tất cả mọi hành động của thần thánh đều không thể hiểu thấu được. Tính ngẫu nhiên, không theo quy luật nào, của cái chết, dường như không hướng đến sự sòng phẳng nào, và điều đó tạo ra trong chúng ta một cảm giác vô nghĩa đến tuyệt vọng.
Có lẽ thật nghịch đạo khi đặt ra những câu hỏi như vậy. Và quả thực, một số người cho rằng chúng ta không nên hỏi những câu hỏi như vậy. Nhưng những câu hỏi như vậy ẩn chứa ước mong của tâm hồn muốn thấu hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa trọn vẹn của việc chúng ta tham gia vào cái chết của Chúa Kitô.
Chẳng hạn, trong những bài thánh vịnh than khóc của mình, các tác giả Thánh vịnh thường khóc lóc to tiếng trong nỗi thống khổ dường như bị Thiên Chúa bỏ rơi, vì Ngài không thực hiện những lời hứa giao ước với Israel. Họ thường than van, rên rỉ về những đau khổ khủng khiếp mà những người công chính của Thiên Chúa phải chịu dưới tay những kẻ làm chuyện tàn ác. Khi làm như vậy, họ tự hỏi lớn tiếng, dưới hình thức lời cầu nguyện, tại sao vương quốc của Thiên Chúa lại có vẻ như là một mớ bòng bong bừa bãi mà không có một khuôn khổ rõ ràng nào về hành động của Thiên Chúa đối với những người công chính so với những kẻ bất chính.
Tính chất gây sửng sốt của các sách Thánh vịnh, chưa từng có trong các tôn giáo trên thế giới, nằm ở sự trung thực mạnh mẽ khi đặt những câu hỏi về đường lối của Thiên Chúa, vốn dường như hoàn toàn thờ ơ với hoàn cảnh khốn cùng của Israel. Và điều này, một lần nữa, đem lại sự bảo đảm của Kinh thánh cho những câu hỏi chúng ta đặt ra. Nói cách khác, mặc khải cho thấy rằng Thiên Chúa thực sự chúc lành cho cách đặt vấn đề như vậy như một phần của con đường dẫn đến sự khôn ngoan.
Do đó, những ai chỉ nhìn thấy trong những câu hỏi như vậy sự nghi ngờ phạm thượng đến đường lối của Thiên Chúa thực ra là những người không theo Kinh thánh. Về vấn đề này, chúng ta có thể nghĩ đến những người bạn của ông Gióp, họ đưa ra tất cả những “công thức” đạo đức thường thấy nhằm áp đặt một sự hợp lý theo kiểu lý luận thần học lên những đau khổ không có lý do rõ ràng và không đáng xảy ra cho ông Gióp.
Khi nói đến sự ngẫu nhiên không thể tránh khỏi của các sự kiện trong cuộc sống của chúng ta và thế giới tự nhiên, và khi nói đến cái chết quá sớm của những trẻ em vô tội, chính Thiên Chúa đã để chúng ta bị rối trí. Thật vậy, sự rối loạn trong tâm hồn chúng ta, vốn bị gây ra bởi những điều ác ngẫu nhiên, không có mục đích hợp lý rõ ràng, dường như là cách được Kinh thánh bảo đảm để đi đến sự thấu hiểu sâu sắc hơn về toàn bộ mức độ nặng nề của tội lỗi, đặc biệt là khi xét đến tất cả những hậu quả kéo theo của nó.
Chính Chúa Giêsu đã trích dẫn lời than thở ở đầu Thánh vịnh 22: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” Đó là một lời van xin đau đớn sâu xa của tác giả Thánh vịnh, xin Chúa giải thoát khỏi những cuộc tấn công liên tục chưa có dấu hiệu kết thúc của kẻ ác. Điều quan trọng là, Thánh vịnh mở đầu bằng lời than thở rằng Thiên Chúa dường như không nghe thấy lời cầu nguyện của người công chính và lạ lùng thay, thờ ơ với những lời cầu xin cứu giúp của người đầy thống khổ: “Dù con thảm thiết kêu gào, nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!” (Tv 22: 2). Tác giả Thánh vịnh đang ở giữa những đau khổ tột cùng dưới tay kẻ ác và đang trong tình trạng cùng cực – in extremis, vậy mà Thiên Chúa vẫn im lặng một cách khủng khiếp.
Điều đáng chú ý là tác giả Thánh vịnh gọi những kẻ làm ác là “đàn bò” và “bầy chó”, ngụ ý rằng hành động của chúng là hành động của loài vật không có lý trí, và do đó không có đạo đức. Nói cách khác, cái ác được miêu tả trong Thánh vịnh như sự xâm nhập của những điều phi lý và ngẫu nhiên, cũng cho thấy sự vô nghĩa của cơn thịnh nộ của cái ác, không phân biệt bất cứ ai, đối với người công chính.
Do đó, bản chất của lời than thở là việc Thiên Chúa thực hiện các hành động cứu rỗi của Ngài có vẻ như ngẫu nhiên một cách kỳ lạ, đến mức như không có các hành động cứu rỗi đó, dù con người cố tìm hiểu cách nào đi nữa.
Tất nhiên, Thánh vịnh kết thúc bằng lời khẳng định vang dội về tình yêu thương vững bền và tin tưởng rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ minh oan cho những người công chính, một sự minh oan sẽ dẫn đưa mọi dân tộc trên thế giới quay về thờ phượng Thiên Chúa chân thật duy nhất của Israel Dân Chúa.
Kinh nghiệm của chúng ta về sự ngẫu nhiên khó chịu của cái chết cũng giống như vậy. Nếu chính Chúa Giêsu, khi trích dẫn Thánh vịnh 22 từ thập tự giá, xác nhận lời than thở của chúng ta về sự vô lý của cái chết, thì chúng ta có thể chắc chắn rằng không có khối lượng suy tư thần học nào có thể đưa chúng ta đến một mức độ hợp lý nào đó nhằm đóng lại “vấn đề”. Không một chiếc nhẫn giải mã ma thuật nào được ban cho chúng ta để có được “câu trả lời” cho vấn đề này.
Nhưng ít nhất chúng ta có thể nói rằng khuôn mẫu của cái chết có lẽ lại chính là tính không khuôn mẫu của nó. Việc chúng ta bước theo sự thánh thiện không bao giờ nên bị ràng buộc bởi những hình thức thưởng phạt rõ ràng và phân minh, theo cách quid-pro-quo – cái này đổi lấy cái kia. Sự thánh thiện mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước tới được đặt trên nền tảng là những động lực vượt lên trên sự tính toán rủi ro và số tiền thưởng, như thể đời sống đạo đức có thể được định giá một cách thích đáng bởi một chuyên gia bảo hiểm. Chính Chúa Giêsu đã chỉ ra rằng những người bị tháp Silôê đổ xuống giết chết không phải là những tội nhân lớn hơn bất cứ ai khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Luca 13:4-5).
Điều này một lần nữa cho chúng ta thấy rằng trong Tin mừng, sự ngẫu nhiên của cái chết không được xem là một vấn đề thần học nhưng là lời kêu gọi sống trong sự bấp bênh, nhận ra rằng chúng ta, cùng với sự sống của mình, có thể được gọi về với Chúa bất cứ lúc nào, bất kể tình trạng đạo đức của chúng ta ra sao.
Như Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12: 20). Chính vì bản chất khôn lường của mầu nhiệm sự chết mà chúng ta sống trong tình trạng không an toàn đó. Bởi vì chỉ trong sự bấp bênh, chúng ta mới có thể nhận ra rằng “tất cả đều là hồng ân” và chỉ trong sự hạ mình hy sinh tự hủy – kenosis – cùng với Chúa Kitô đi vào những vực sâu huyền nhiệm của sự chết, chúng ta mới có thể đạt được ơn cứu độ.
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: ncregister.com (13/11/2025)
