(Hc 48:1-14; Mt 6:7-15)
Tác giả của sách Huấn Ca được trích trong bài đọc 1 hôm nay ca ngợi Êlia, “vị ngôn sứ chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng” (Hc 48:1). Ông đã để lại một hình ảnh như thế nào? Sách Huấn Ca cho chúng ta biết: (1) ông là người có lòng nhiệt thành; (2) ông chỉ nói lời Thiên Chúa; (3) ông làm bao việc lạ lùng [phép lạ]; (4) ông bênh vực công lý cho những kẻ bần cùng trước các thế lực vua chúa; (5) ông có một tương quan mật thiết với Thiên Chúa; (6) ông cầu khẩn cho dân; (7) ông được an nghỉ trong tình yêu Thiên Chúa (x. Hc 48:2-11). Vì là ngôn sứ trung thành của Đức Chúa, nên “đối với ông, chẳng có gì là quá sức, ngay cả khi ông đã qua đời, thân xác ông vẫn còn giữ năng lực của một ngôn sứ. Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng” (Hc 48:13-14). Êlia đã thuộc về Thiên Chúa khi còn sống cũng như khi đã được đưa về trời. Cuộc sống của ông hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Vì vậy, ông đã sống một đời sống thật ý nghĩa và để lại cho đời một gương sáng. Còn chúng ta thế nào? Chúng ta muốn để lại cho đời một cuộc sống như thế nào?
Trong bài Tin Mừng hôm qua, chúng ta đã thấy cầu nguyện là một trong ba công việc đạo đức chính của một người Do Thái. Chúa Giêsu muốn việc cầu nguyện của người môn đệ Ngài phải khác. Bài Tin Mừng hôm nay sẽ chỉ ra những điều khác biệt trong lời cầu nguyện của người môn đệ Chúa Giêsu. Nếu chúng ta lưu ý cấu trúc của trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ ra ba điều quan trọng trong lời cầu nguyện của người môn đệ: (1) Những điều phải tránh; (2) phải cầu nguyện như thế nào [nội dung của lời cầu nguyện]; và (3) kết quả của đời sống cầu nguyện.
Trong cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài tránh những điều sau: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6:7-8). Qua những lời này, Chúa Giêsu chỉ ra cho các môn đệ rằng việc cầu nguyện không phải là “bắt chước” những lời hay những công thức của người khác. Cầu nguyện là đối thoại cá vị giữa người môn đệ với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta là độc nhất vô nhị, không bao giờ lặp lại trên thế gian này. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, mỗi người có một cách thức cá vị để tương quan với Ngài. Điều này không có nghĩa là chúng ta không “bắt chước” hay “học hỏi” ở người khác. Điều muốn nói ở đây là chúng ta phải biến những điều học hỏi thành máu thịt của mình. Một cách cụ thể hơn, chi tiết này giúp chúng ta tránh thái độ “so sánh” hay tập trung vào cách thức người khác cầu nguyện hơn là tập trung vào chính tương quan của mình với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Thật vậy, chúng ta thường có khuynh hướng so sánh mình với người khác. Hệ quả là chúng ta bắt chước và mong ước những gì người khác có mà mình không có. Chúng ta ít khi khám phá ra những gì chúng ta có mà người khác không có để tạ ơn Thiên Chúa và sử dụng những điều Ngài ban để làm vinh danh Ngài. Bí quyết trong cầu nguyện là “đừng nhìn chung quanh,” nhưng “hãy nhìn lên Chúa” và “nhìn vào trong con tim” của mình. Chỉ khi biết nhìn lên Chúa và nhìn vào trong con tim của mình khi cầu nguyện, chúng ta mới biết làm thế nào để nhìn và thay đổi môi trường và những người chung quanh.
Trong cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn các môn đệ mặc lấy tình con thảo và kêu Thiên Chúa là Cha: “Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ’” (Mt 6:9-13). Trong bối cảnh lời dạy của Chúa Giêsu về cầu nguyện, Kinh Lạy Cha được xem là ví dụ của một lời cầu nguyện ngắn, giống với 18 lời chúc tụng và Quaddish của phụng vụ người Do Thái cử hành trong hội đường. Chúa Giêsu thêm phần gọi Thiên Chúa là Cha, là một đặc tính trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và phần nói về tha thứ. Theo các học giả Kinh Thánh, Thánh Mátthêu có thể đã thêm vào trong hình thức sớm nhất về lời kinh này được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Luca (11:2-4). So sánh hai bản văn, chúng ta nhận ra những khác biệt sau: (1) Trong Tin Mừng Thánh Luca, chúng ta đọc thấy: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh cha vinh hiển.” Thánh Mátthêu thêm vào: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”; (2) Tin Mừng Thánh Luca không có câu: “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”; (3) Thánh Mátthêu thêm vào phần cuối câu “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Tóm lại, ba điểm mà Thánh Mátthêu thêm vào trong lời Kinh Lạy Cha của Chúa Giêsu là: (1) khẳng định Thiên Chúa là Cha chúng con và đang ngự trên trời; (2) xin cho ý Ngài được thể hiện dưới đất cũng như trên trời; và (3) xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Chúng ta thấy câu 1 (khẳng định về Thiên Chúa) chi phối hai câu sau. Điều này ngụ ý rằng lời cầu nguyện của chúng ta phải hàm chứa mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa và hoa trái của mối tương quan này là thánh ý Ngài được thể hiện “dưới đất cũng như trên trời” và chúng ta được cứu khỏi mọi sự dữ [sự dữ nguy hiểm nhất chính là cái chết muôn đời].
Sau khi cầu nguyện, người môn đệ Chúa Giêsu phải có lòng bao dung, tha thứ: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6:14-15). Trong những lời này, Chúa Giêsu đưa các môn đệ vào trong quỹ đạo tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu chân thật không bao giờ tách rời khỏi lòng bao dung và sự tha thứ. Trong bối cảnh của trình thuật Tin Mừnh hôm nay, Chúa Giêsu kết thúc phần dạy về cầu nguyện của Ngài với hai câu mệnh đề có điều kiện kèm theo hệ quả của nó: một mệnh đề tích cực [tha thứ cho người khác để được Thiên Chúa tha thứ] và một mệnh đề tiêu cực [không tha thứ cho người khác nên không được Thiên Chúa thứ tha]. Trong hai mệnh đề này, chúng ta đang sống mệnh đề nào: chúng ta đang tha thứ hay không tha thứ? Hãy chọn sống tha thứ ngay giây phút này để cảm nghiệm được tình yêu, niềm vui khi được Thiên Chúa thứ tha.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB