Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Tin mừng Matthêu đã tường thuật câu chuyện của một người luật sĩ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi người rằng: “Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào là quan trọng nhất?. Chúa Giêsu đã trả lời ngay: Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 36-40). Yêu người thân cận hay nói cách khác là thực thi “đức ái huynh đệ”. Đây là một trong những nguyên lý cốt lõi trong đời sống đức tin, thể hiện sự yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, dựa trên tình yêu mà Chúa Giêsu đã dạy. Vậy thực thi đức ái huynh đệ phải được hiểu như thế nào dưới nhãn quan kitô giáo? Và phải thực hành làm sao trong cung cách sống của mỗi người để mang đậm nét tinh thần Tin mừng như Chúa đòi buộc. Bài viết này sẽ đề cập đến những vấn đề đó.
- Thực thi đức ái huynh đệ là thi hành mệnh lệnh yêu thương của Chúa.
Đức ái huynh đệ không chỉ là một nguyên tắc nhân bản mà còn là một mệnh lệnh, là lời kêu gọi sống động từ chính Chúa Giêsu, bắt nguồn từ tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa đối với nhân loại và đỉnh điểm là cái chết vô giá của Con Thiên Chúa trên cây thập tự. Tất cả mọi kitô hữu đều được mời gọi thi hành mệnh lệnh ấy và bước vào lối sống tình yêu như Thầy Chí Thánh.
Trong Cựu Ước, luật Môsê dạy rằng: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5, 43), nhưng khi Đức Giê-su đến, Ngài đã dạy họ hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi, bắt hại anh em. Nếu chúng ta cũng ghét những kẻ ghét mình thì chúng ta đang hành xử như dân ngoại (x. Mt 5, 44-48). Thiên Chúa dạy chúng ta hãy dùng tình yêu mà đối xử với nhau, đức ái huynh đệ đòi hỏi chúng ta đi ngược lại khuynh hướng tự nhiên, vốn bị khuyết nhược kể từ nguyên tổ phạm tội. Ở đó, tình yêu theo khuynh hướng tự nhiên này khiến chúng ta giới hạn tình yêu: yêu thương người khác chỉ vì cảm tính, chỉ vì những lợi ích nào đó, hoặc có khi đơn giản chỉ vì không ghét họ. Trong khi đó, đức ái mà Chúa Giêsu dạy, làm cho chúng ta yêu mến người thân cận vì Thiên Chúa, vì họ là con Thiên Chúa, vì họ được tạo dựng nên giống hình ảnh của Chúa. Điều này có nghĩa là vì chúng ta có chung một Thiên Chúa là Cha, và tất cả mọi người đều là anh em với nhau.
Do đó, thánh Gioan tông đồ có lý khi tuyên bố rằng: ai yêu Chúa mà không yêu tha nhân thì người ấy là kẻ nói láo (x. 1 Ga 4, 20). Điều này giả thiết rằng tôi yêu mến Chúa, tôi cầu nguyện, tôi tham dự đầy đủ các cử hành phụng vụ … nhưng rồi tôi ghét người chị em tôi; thì ở đây, với thánh Gioan, Ngài không nói: bạn sai rồi, nhưng Ngài nói: bạn là kẻ nói dối. Cùng ý hướng ấy, cha Dom Marmion viết: “Một tâm hồn thiếu bác ái, không thể kêu: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Nói như thế là nói dối.”[1] Bởi Chúa Kitô là đầu và Giáo hội là thân thể nhiệm mầu của Chúa. Chúng ta không thể tách ra làm đôi, yêu Chúa thì phải yêu cả chi thể của Chúa. Tình yêu đối với người thân cận như một hệ quả tất yếu và là dấu chỉ cho tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
Hơn thế nữa, Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến khẳng định: “Đời sống thánh hiến, được bén rễ sâu xa từ gương mẫu và giáo huấn của Chúa Kitô” (VC 1); thế nên, người tu sĩ cố gắng “bước theo Đức Kitô – sequela Christi”, càng sát càng gần bao nhiêu thì càng tốt càng đúng là môn đệ Đức Kitô bấy nhiêu. Thế nên, cả cuộc đời của tu sĩ phải là lời đáp trả tích cực cho mệnh lệnh yêu thương ấy. Phải là cánh tay nối dài của Chúa, phải họa lại cuộc sống của Giêsu tình yêu giữa trần gian này và phải loan truyền đức ái huynh đệ ấy đến cho tất cả mọi người.
- Thực thi đức ái huynh đệ là phản ánh tình yêu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là tình yêu, cho nên thực thi đức ái chính là thể hiện tình yêu trong cuộc sống hàng ngày như cách yêu của Chúa.
Thật vậy, Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa của sự tự hủy (kenosis), của hòa bình, của tình yêu. Ngài dùng sức mạnh tình yêu của mình để cải hoán con người, để lôi cuốn con người chứ không phải bằng vũ lực, tiền tài hay bất cứ sức mạnh trần thế nào. Thử ngẫm xem, khi dân Do Thái bị đô hộ bởi đế quốc Roma, người ta trông chờ một Đấng Messia uy nghi, giàu sang trần thế, đánh đông dẹp bắc, tiền hô hậu ủng, lên ngôi bá chủ thiên hạ… Nhưng Chúa Giê-su đến, một Messia xuất hiện một cách khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa con, Ngài đến giải thoát con người bằng cái chết trên thập giá, nghĩa là bằng tình yêu vô lượng vô biên, vô điều kiện của Ngài. Đó chính là cách mà Thiên Chúa muốn con cái của Ngài bước theo. Điều này nhắc nhở rằng, khi thế giới nhìn thấy sự yêu thương đích thực, không vụ lợi và đầy nhân ái giữa các tín hữu, họ sẽ nhận thấy hình ảnh của Chúa đang hiện diện ngay trên trần gian này.
Bên cạnh đó, hành động đức ái huynh đệ như là một phản ứng tự nhiên đối với tình yêu mà con người cảm nhận sâu sắc từ tình yêu của Chúa. Cảm nghiệm về tình yêu của Chúa dành cho mình sâu xa chừng nào thì nguồn động lực ấy sẽ thúc đẩy họ sống yêu thương, dấn thân và phục vụ mọi người, bất kể là bạn bè hay kẻ thù. Điều đáng nói nữa là tình yêu đích thực thì không chỉ dừng lại ở lời nói, mà phải được thể hiện bằng hành động, sự hy sinh và quan tâm chân thành. Nó bao hàm nhiều khía cạnh, chẳng hạn như: Yêu thương người khác không dựa trên điều kiện, hoàn cảnh, hay giá trị vật chất của họ. Thậm chí yêu thương cả những người hay nói xấu, hay có thành kiến với ta; sự quan tâm chân thành, để ý đến nhu cầu, khó khăn, và nỗi đau của người khác, và sẵn sàng giúp đỡ họ. Sự chia sẻ và đồng cảm, đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu được cảm xúc và hoàn cảnh của họ; hãy đón nhận nhau như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em (x. Rm 15, 7). Đối xử công bằng với mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, tôn giáo, chủng tộc….Sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của người khác và thể hiện sự khoan dung, rộng lượng, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau (x. Ep 4,2). Khiêm nhường và phục vụ, đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của mình, sẵn sàng phục vụ người khác mà không cần đòi hỏi bất cứ điều gì như thánh Phaolô truyền dạy, coi người khác trọng hơn mình (x. Rm 12, 10).
Về điểm này, thánh Bênađô, viện phụ cũng gợi lên cho chúng ta những ý tưởng cao quý về tình yêu khi Ngài cung chiêm bằng những lời lẽ sau đây:
“Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó”.
Do đó, một lần nữa, chúng ta phải nhắc lại rằng yêu người là cách thế hữu hiệu và cụ thể nhất để con người đáp trả lại tình yêu của Đấng Tạo Hóa, để con cái đáp trả lại tình yêu của người Cha. Vì rằng, ví tựa niềm vui của người cha người mẹ là thấy con cái thuận hòa yêu thương nhau; cũng thế, ước mơ của Thiên Chúa là thấy được con cái loài người biết thương yêu hòa thuận với nhau. Do đó, mỗi người, dù ở bất cứ hoàn cảnh hay vị thế nào, cũng phải bắt đầu và lại bắt đầu bằng tình yêu.
Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể thực thi được đức huynh đệ như Chúa truyền dạy và như gương của Thầy chí thánh? Làm sao chúng ta có thể lội ngược dòng bởi chúng ta không thể phủ nhận rằng: có những thách đố lớn đến từ thế giới bên ngoài, từ chính cộng đoàn hay bởi chính bản thân người tu sĩ, làm nên rào cản khiến ta khó thi hành mệnh lệnh yêu thương của Chúa Giê-su truyền dạy, thực thi đức ái với hết mọi người?
- Những thách đố, rào cản trong khi thi hành đức ái huynh đệ
a. Đến từ xã hội:
Hơn bao giờ hết, cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn bởi sự tiến bộ vượt bậc về mặt khoa học, kỹ thuật, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách đố, sự đi lùi về mặt tinh thần, luân lý, và đạo đức.
Các chủ nghĩa tục hóa, tương đối, cùng với chủ nghĩa hưởng thụ khoái lạc, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa cá nhân… đã đưa con người chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn. Con người càng ngày lún sâu vào “thảm họa của văn hóa sự chết”[2] như Đức cố thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã cảnh giác khi Ngài còn cai trị Giáo Hội.
Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đặc biệt lưu ý Giáo Hội về thực trạng “tôn thờ tiền bạc” và dửng dưng đối với người nghèo khó của con người thời đại hôm nay. Lối sống dửng dưng, sống trong hận thù, ghen ghét, chém giết, khủng bố và chiến tranh đang lan tràn. Thực trạng này vẫn tiếp tục diễn ra mỗi ngày, là thách đố lương tâm nhân loại, là rào cản trái tim của những người con Chúa khi thực thi đức ái.
b. Đến từ đời sống cộng đoàn và cá nhân
Đời sống cộng đoàn cũng là lời thách đố cho những người sống đời tận hiến. Đơn giản là vì nơi cộng đoàn, có nhiều người sống với nhau, nhưng lại khác nhau về tuổi tác, văn hóa, nền giáo dục, suy nghĩ, lối sống, quan điểm. Những khác biệt này ít nhiều cũng sẽ gây ra những xung khắc, căng thẳng không thể tránh khỏi trong cuộc sống thường nhật. Thế nhưng, dù những khó khăn trên có lớn đến đâu thì kẻ thù lớn nhất vẫn là chính mỗi cá nhân. Thực tế cho thấy, một đàng người tu sĩ mạnh mẽ từ bỏ thế gian, long trọng tuyên bố buông bỏ mọi thứ, một đàng lại để cho cái tôi đáng ghét trổi dậy. Cái tôi ấy khiến người tu sĩ có khuynh hướng sở hữu riêng, chiếm hữu riêng, đặt mình làm trung tâm, sống cho mình hơn là vì người khác… Đó chính là sự căng thẳng diễn ra ngay chính trong bản thân của mỗi người, vốn là điều mà Công đồng Vaticanô II, qua Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng lưu ý: “Trong chính con người đã có những yếu tố xung khắc nhau. Một đàng, vì là thụ tạo, con người nghiệm thấy mình bị hạn chế về nhiều phương diện, đàng khác lại cảm thấy mình có những khát vọng vô biên, và được kêu mời vươn tới một cuộc sống cao đẹp hơn. Bị lôi kéo tư bề, con người luôn buộc phải chọn bên này bỏ bên kia. Đàng khác, vì yếu đuối và tội lỗi, lắm khi con người làm chuyện mình không muốn và không làm chuyện mình muốn. Thành ra con người chịu cảnh chia rẽ trong chính bản thân mình, và đó là nguyên do gây ra bao mối bất hoà trầm trọng trong xã hội”.
Do đó, có thể nói, để cho cộng đoàn hòa thuận, yêu thương nhau, thì vấn đề cần được xem xét trước hết và trên hết lại hệ tại ở nơi chính bản thân của mỗi tu sĩ. Ở đó, mỗi người phải tự mình giải quyết sự xung khắc, mối bất hòa, chia rẽ ngay chính trong nội tại của mình. Điều này có nghĩa rằng, bao lâu sự xung khắc của bản thân vẫn còn ngổn ngang, bấy lâu đức ái huynh đệ mà mỗi người giành cho nhau trong cộng đoàn sẽ vẫn chỉ là ước mơ xa vời. Ngược lại, bao lâu sự xung khắc của bản thân được giảm trừ thì bấy lâu “tình huynh đệ như men nồng rượu mới” sẽ ngự trị giữa cộng đoàn; khi đó, cộng đoàn thực sự là “trường dạy yêu mến – Schola Amoris” (HĐ 35).
- Thực thi đức ái huynh đệ trong tin thần Tin Mừng:
a. Hãy trở về với nội tâm: cầu nguyện để gặp gỡ Chúa
Đứng trước một thế giới và đối diện với những thách đố ấy, tôi thiết tưởng, để thực thi đức ái như Chúa đòi hỏi thì các kitô hữu, cách riêng là những nữ tu Mến Thánh Giá trước hết cần đào sâu đời sống nội tâm, đắm chìm trong đời sống cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và để được Ngài hướng dẫn. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu và phải làm thế nào để thực thi đức ái huynh đệ như Chúa truyền dạy.
Theo trình thuật của các Tin Mừng, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là mẫu gương của đời sống cầu nguyện. Bên cạnh thời gian chữa bệnh, dạy dỗ đám đông dân chúng, Ngài tranh thủ cầu nguyện. Ngài cầu nguyện một mình, hay cầu nguyện trước sự hiện diện của đám đông. Ngài cầu nguyện lúc nửa đêm, vào sáng sớm, hay vào lúc chiều tối. Ngài cầu nguyện trước những quyết định quan trọng để tìm thánh ý Cha. Và cuộc đời của Ngài là những chuỗi ngày cầu nguyện, chuỗi ngày nối kết sống động với Thiên Chúa là Cha. Chính trong mối tương quan mật thiết với Chúa Cha ấy đã giúp Ngài can đảm hoàn thành sứ mạng Cha giao.
Còn chúng ta – những người đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa – thì sao? Giữa những ồn ào náo nhiệt của cuộc sống, giữa guồng máy của công việc, chúng ta dễ xa rời Thiên Chúa, bỏ bê đời sống cầu nguyện và nói một cách nào đó, không có thời gian dành cho Chúa. Thậm chí, những người sống đời thánh hiến, không ít người cũng rơi vào cảnh ngộ đó. Những công việc bên ngoài: dạy trẻ, mục vụ…và cách riêng là thời gian cao điểm của những mùa lễ lớn, Chị em chúng ta dễ bị cuốn vào công việc, mà lãng quên, hoặc xem nhẹ việc cầu nguyện, vốn là chất đốt cho mọi hoạt động trong ngày sống của mỗi người. Cho nên, giả thiết rằng, nếu người tu sĩ thiếu vắng cầu nguyện, thì liệu rằng đời sống phục vụ của người ấy có trổ sinh hoa trái tốt lành không? Thánh Têrêsa Calculta có lý khi chỉ ra một chuỗi hoa trái khởi đi từ cầu nguyện: “Hoa trái của Cầu Nguyện là ĐỨC TIN. Hoa trái của Đức Tin là TÌNH YÊU. Hoa trái của Tình Yêu là PHỤC VỤ. Hoa trái của Phục Vụ là BÌNH AN”.
Bên cạnh đó, một tu sĩ muốn họa lại hình ảnh Đức Giê-su trong chính bản thân mình, muốn thực thi mệnh lệnh yêu thương của Chúa nhưng không đắm chìm trong tương quan với Chúa, không dành thời gian ưu tiên để nghe Ngài dạy bảo thì liệu chúng ta có hiểu được cách yêu và cách phục vụ của Chúa không?
Đấng Sáng Lập đã dạy “Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc Âm, hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc sa xuống trên cánh đồng” (Đc. Lambert- Ts 31). Và Mẹ thánh Têrêsa Calculta cũng nói rằng: “Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: – Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!”[3]. Chính khi cầu nguyện, Mẹ Têrêsa đã thấy được hình ảnh của Đức Giê-su nơi mọi người.
Cũng vậy, chính trong cầu nguyện, chúng ta mới nghe được tiếng Chúa, mới nhận ra được ý muốn của Ngài, mới thấy được Chúa vượt trên mọi dáng vẻ bề ngoài nơi người khác. Và với ơn Chúa, chúng ta mới đủ sức hoán cải chính mình. Tình yêu của người cầu nguyện sẽ mở ra cho tha nhân, và phục vụ họ như cách Chúa phục vụ.
b. Cảm thức thuộc về:
Và mỗi người chúng ta hãy tập cho bản thân có được ý thức và sống cảm thức thuộc về.
Trước hết, cảm thức mình thuộc về Thiên Chúa giúp chúng ta sống trọn tâm tình tạ ơn vì ý thức ơn gọi của mình là một hồng ân phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa. Đồng thời tình yêu ấy được đáp trả bằng việc hiến thân trọn vẹn cho Chúa và bước đi trong đường lối của Người. “ Các con hoàn toàn thuộc về Đức Kitô vì đã hiến thân trọn vẹn cho Người” (Đc. Lambert – Btt 4). Đó chính là con đường của tình yêu. Sống linh đạo thập giá, cả cuộc đời mình chọn Đức Giêsu Kitô Chịu – Đóng – Đinh là đối tượng duy nhất thì người nữ tu Mến Thánh Giá không thể sống ngoài con đường tình yêu như Chúa đòi buộc được.
Chính trong cảm thức thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được thúc đẩy để có cảm thức thuộc về Hội dòng, cộng đoàn. Tinh thần rộng mở, quảng đại ấy giúp chị em không bị khựng lại ở những chuyện nhỏ mọn trong cuộc sống hằng ngày, nhưng có khả năng đối diện với những xung đột của đời sống chung để cởi mở, đón nhận và bao dung với chị em. Thực thi đức ái ngay trong chính cộng đoàn với những chị em bên cạnh mình. Đó là hành động của sự sẻ chia, trao ban thời giờ, sức khỏe, khả năng… của mình cho người khác. Đó là khả năng khước từ ý riêng, không nại lý do cá nhân, để sẵn sàng phục vụ các chị em lớn tuổi, không ngại những việc tầm thường, xả thân cho công việc chung. Đó là sự chấp nhận những khác biệt của nhau vì tình yêu Chúa. Đó là tha thứ cho những người làm ta tổn thương (x. Hc. Đ. 41). Chính hành động huynh đệ ấy giúp mỗi người đối thoại, lắng nghe, chia sẻ và thông cảm nhau hơn và từ đó, chị em có thêm động lực để giúp nhau thi hành sứ mạng.
Bên cạnh đó, chính trong cảm thức thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được thôi thúc thuộc về những anh chị em đồng loại. Ở đó, cảm thức thuộc về này sẽ giúp chúng ta có một cung cách phục vụ phi thường hơn. Phục vụ với lòng hy sinh tận tụy và trách nhiệm, cùng khát vọng đem lại thiện ích cho người “khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí” (Gl 6,9-10). Cảm thức này cũng thôi thúc chúng ta dấn thân và sáng tạo hơn trong việc tông đồ. Ngoài ra, với tình yêu thương, chúng ta còn có cái nhìn tích cực về sự hiện diện của họ trong đời sống của mình: họ chính là món quà Chúa gởi đến giúp chúng ta có cơ hội thực thi sứ vụ, chu toàn trách nhiệm của một người thánh hiến. Vì thế, chúng ta luôn tôn trọng và đón nhận những người chúng ta phục vụ như những hồng ân quý báu Chúa ban. Họ là những người đang giúp chúng ta hoàn thiện ơn gọi của mình.
Thay cho lời kết,
Như Hiến chương đòi buộc, người nữ tu Mến Thánh Giá phải mang trái tim thương cảm và trở thành cánh tay hữu hình, trung gian của Đức Kitô Chịu- Đóng- Đinh (x. Hc, Đ. 69 và 70), mỗi chị em chúng ta phải trở nên cánh tay nối dài của Thiên Chúa Tình Yêu, loan báo tình yêu của Ngài đến với tất cả mọi người, không phân biệt một ai. Nhờ đó, những ai tiếp xúc và cảm nhận được tình yêu của chúng ta cũng sẽ biết được rằng Thiên Chúa là ai và như thế nào.
Đồng thời, cũng chính vì cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đang không ngừng tưới gội trên cuộc đời mỗi người mà chị em chúng ta sẵn lòng chấp nhận bị cắt tỉa để nên giống Chúa hơn, sống cho Chúa hơn, phục vụ Chúa hơn ngang qua việc thực thi đức ái với mọi người. Để rồi, qua hành động thực thi bác ái huynh đệ ấy mà hình ảnh Nước Trời được ngự trị ngay trên trần gian này, mở ra một chân trời mới với niềm hy vọng, tin tưởng và lạc quan về sự hiện diện sống động của Thiên Chúa.
Nữ tu Anna Nguyễn Thị Anh Thư
[1] “Quan niệm nền tảng về Đức Ái Ki-tô giáo,” Giáo phận Lạng Sơn- Cao Bằng, truy cập ngày 10 tháng 3, 2025, https://giaophanlangson.net/noi-dung/quan-niem-nen-tang-ve-duc-ai-ki-to-giao-7455-11470312082018.
[2] “Đâu là những thách đố và hiểm nguy cho niềm tin có Thiên Chúa ngày nay,” Giáo phận Phan Thiết, truy cập ngày 5 tháng 3, 2025, http://gpphanthiet.com/index.php/vi/news/song-dao/dau-la-nhung-thach-do-va-hiem-nguy-cho-niem-tin-co-thien-chua-ngay-nay-2191.html.
[3] Ngày 05/09: Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu, Tổng Giáo phận Sài Gòn, truy cập ngày 5 tháng 3, 2025, https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-05-09-thanh-teresa-calcuttanu-tu-47938