Lược Sử Các Cộng Đoàn – Cộng Đoàn Nhà Mẹ

C. Đời sống Cộng đoàn Nhà Mẹ sau năm 1975 đến hôm nay

*Cộng đoàn Nhà Mẹ – có lúc cũng gọi là Trung Ương Dòng

1. Tinh thần Tu trì Đạo đức: Trong giai đoạn nầy chưa có thể tổ chức các khóa huấn luyện hay bồi dưỡng, ngoài những điều đã có nhờ ơn Chúa thương ban: Thánh lễ mỗi ngày, duy trì các kỳ tĩnh tâm năm, các việc đạo đức, Giờ Kinh Phụng vụ, giờ tôn thờ Thánh Thể; những điều ấy nhằm củng cố tinh thần tu trì cho mỗi chị em. Đón nhận hiện tại tuy nghiệt ngã, theo tinh thần “Tôi Vui Sống” là hướng đi của vị Cha hung sau biến cố tháng 4/1975 của Đức Tổng Philipphê Nguyễn Kim Điền, TGM/TGP Huế.

*Người nữ tu trong xã hội chủ nghĩa mới đòi hỏi phải trưởng thành nhiều mặt, nên nhà Dòng chú trọng bồi dưỡng huấn luyện cho chị em ý thức mình là một tu sĩ thực thụ, sống chứng nhân để giữ vững niềm tin giữa môi trường hiện tại. Dòng phát động chiến dịch học hỏi và sống Đức tin, rồi tiếp theo là triển khai Đức Cậy và Đức Mến.

Tháng Năm, Tháng Mười, luôn có những buổi dâng Hoa kính Đức Mẹ, với chủ đề được ban Phụng vụ cộng đoàn đề ra, các bài suy niệm, hình thức dâng hoa mong sao đẹp lòng Mẹ và hữu ích cho đời sống đạo đức của chị em.

Tháng kính Thánh Giuse Vị Thánh Quan Thầy của Hội dòng, chị em được suy niệm trong tâm tình Tạ ơn, bắt chước các nhân đức của Ngài.

Qua thời gian, Nhà Dòng luôn không ngừng ưu tư quan tâm, tạo điều kiện củng cố tinh thần tu trì qua đời sống phụng vụ, đào sâu, lớn lên trong tinh thần đạo đức qua ơn thánh hóa cho từng cá nhân và đoàn sủng Chúa ân ban qua Hội dòng.

Trong những năm đó, Hội dòng đã mở những khóa Linh Thao do các cha Batôlômêô Nguyễn Phùng Tuệ và Cha Antôn Ngô Văn Vững SJ hướng dẫn. Cuộc sống mang dấu ấn an bình trong bàn tay quan phòng của Cha trên trời. Chị em sống những ngày tháng bình tâm trong Nhà Chúa.

2. Các Lời Khấn:

* Lời Khấn Khó  ghèo: Chị em dần dần ổn định cuộc sống, đi vào nề nếp, qua lao động sản xuất, qua sự cần cù và sáng tạo, chị em đón nhận hoàn cảnh mới, yêu thương phục vụ lẫn nhau và ý thức xây dựng đời sống cộng đoàn. Mặc dầu chị em hiểu rằng, mức sống của một nữ tu Mến Thánh Giá là chọn lấy nếp sống như người trung bình trong xã hội, chị em vẫn đón nhận với tinh thần vui tươi, phó thác vươn lên trong hạnh phúc làm con Chúa.

*Lời khấn Khiết tịnh

Nhà Dòng đã mở các khóa bồi dưỡng để ôn tập cách thực tế về các Lời khấn. Chị em ý thức và trưởng thành hơn trong việc giữ kỷ luật, giữ tâm hồn, thân xác để chỉ thuộc về một mình Chúa, hăng say phục vụ trong công việc tông đồ.

*Lời khấn Vâng phục

Lời khấn Vâng phục chị em luôn vui vẻ ý thức sứ vụ của mình khi được sai đi trong mọi công việc lớn nhỏ và trong mọi hoàn cảnh theo mẫu gương Vâng phục của Chúa Giêsu Kitô. Trong việc thực thi ý Chúa thì từ Bề trên lẫn bề dưới đều phải Vâng phục để tìm Ý Chúa mà thi hành trong mọi hoàn cảnh.

3. *Văn hóa: Sau khi nước nhà thống nhất 1975, chủ trương ‘lao động là vinh quang’ phần lớn sinh hoạt đều nhắm tới công việc lao động chân tay, nên tạm ngừng mọi sinh hoạt về văn hóa. Chỉ riêng số Thanh tuyển (14 em), hai năm đầu còn tiếp tục học văn hóa ở các trường nhà nước, sau nghỉ học để thích ứng được với thanh tuyển mới vào dòng trong môi trường văn hóa lúc đó.

Từ năm 1985 về sau, Hội dòng vẫn luôn quan tâm đến việc học, trau dồi văn hóa, sư phạm và các ngành học hiện đại cho chị em trong nước cũng như ở hải ngoại, để chị em có điều kiện phục vụ hữu hiệu trong các lãnh vực văn hóa – giáo dục sẽ được Hội dòng trao cho chị em sẽ đảm trách sau này.

*Văn hóa và nghệ thuật:

*Tại Ngôi Nhà Hiệp Nhất này: Năm 1971(sau Sàigòn1 năm) đã tổ chức trong 3 ngày Mừng Tam bách chu niên Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam (1670-1970-1971), rất trọng thể. Thánh lễ dâng ở Nhà thờ Chánh tòa Phủ Cam, tại Thợ Đúc, có triển lãm lịch sử Dòng, diễn văn nghệ. Chương trình được quý quan khách, quý Đức Cha, quý Linh mục, đông đảo nam nữ tu sĩ và quý khách đến tham dự đông đúc chúc mừng.

*Để Mừng 300 năm Dòng MTG hiện diện tại Huế (1719-2019), Hội dòng đã thực hiện một Phòng Truyền thống mang tính nghệ thuật cao. Lịch sử Hội dòng được kể bằng hình ảnh và các sơ đồ: Quá khứ, hiện tại được trình bày trong một không gian khiêm tốn, nhưng nói lên được cả một Lịch sử dài theo dòng thời gian ân sủng Chúa cho Hội dòng được sinh ra, lớn lên, hiện diện và được phục vụ trong mảnh đất của Mẹ giáo phận. Phòng Truyền thống cũng trân trọng lưu giữ hình ảnh của Đấng Sáng Lập Dòng, biết ơn các đấng bậc, quý ân nhân đã giúp đỡ Hội dòng lớn lên trong linh đạo Dòng và phát triển trong phục vụ. Song song đó, Hội dòng cũng viết lại Lịch sử qua tập Kỷ Yếu Hội Dòng mừng Kỷ niệm 300 năm thành lập.

4. Về kinh tế:

Sau 1975, kinh tế là mối ưu tư không nhỏ của Dòng và các cộng đoàn chị em. Một chút lo âu, một chút hoang mang trong chế độ mới trong việc chăm sóc các chị lớn tuổi là một trách nhiệm,  cộng thêm với việc nhận người trẻ vào. Với một tập thể trên 70 nhân khẩu, chưa biết phải sinh sống cách nào, khi chưa quen công việc tay chân, kinh nghiệm trồng trọt… Giai đoạn nầy, kinh tế khó khăn, và nhiều vấn đề phức tạp, nên chị Quản lý phải bán dần một số vật dụng như ghế sắt, tủ, bàn v.v… Ban đầu, chị em xuống vườn lao động trồng khoai, sắn (mì), rau muống, rau môn… mức thu nhập không là bao! Ngày ngày số các em đệ tử, thỉnh sinh đi làm rẫy, cào rác thông ở đồi Thiên An, chặt bổi về làm chất đốt, chị em lớn tuổi chằm nón… Chúa thương yêu, quan phòng, chị em sống vui tươi, hội nhập được, ngày ngày sốt sắng nguyện cầu, lao động vườn tược đủ sống qua ngày với nhiều niềm vui trong phó thác cậy trông!

Về sau, chuyển dần qua gia công làm bánh tráng, thêu thùa, dạy mẫu giáo (một mình Chị Mai Anh). Giai đoạn nầy, Cộng đoàn có phần ổn định về mặt tổ chức, các ngành nghề đi vào nề nếp, phát triển: Dệt len, gia công bóc đậu phụng (vào tổ hợp), làm bánh tráng rất nhiều vì các chị cộng đoàn sở ở xa như Diên Sanh (Quảng Trị), Phú Xuân, Thanh Tân (Thừa Thiên), về lấy bánh tráng của Cộng đoàn An Lăng về nướng bán, độ nhật.

Năm 1983, tình hình tương đối dễ thở, các cộng đoàn lớn như Phủ Cam, Khâm Mạng, An Lăng, đã nhận một số các em từ thôn quê lên thành phố học, xin dự tu, tuy có vất vả vì hộ khẩu, nhưng vượt qua được. Cũng từ đó, chị em ghi danh đi học lấy chứng chỉ sư phạm mẫu giáo để có cái gọi là ‘nghiệp vụ’. Tuy An Lăng chưa mở trường cách quy mô, nhưng cũng đã mở Lớp giữ trẻ, tận dụng ba phòng khách rộng rãi của cộng đoàn để đón các cháu, phụ huynh tin tưởng gởi cháu ngày càng đông.

Những năm về sau (2005), cộng đoàn có đúc bánh lễ, đúc sáp (nến) lớn nhỏ; chăn nuôi thêm ít con heo, đủ để dùng trong các dịp lễ…Cộng đoàn làm ít loại nước trái cây để phục vụ trong dịp Tết. Chị em làm thêm bột nghệ, viên thuốc nhàu, bán thêm ít mật gấu, dầu tràm, dầu dừa v.v… Các chị nhà hưu dưỡng siêng năng xâu cườm đá, hạt nhựa cao cấp, hạt bằng gỗ làm chuổi hạt 50 hay chuổi 10 hạt, hoặc những con chuồn chuồn, con chó, con thỏ, con gà… dùng móc chìa khóa; những việc làm tỉ mỉ, cần chăm chỉ, chú mục, nhưng các chị rất yêu thích, vui vì có người mua, để có ‘cái’ đóng góp vào quỷ chung của cộng đoàn (mà chẳng ai bắt buộc)! – Chúa luôn yêu thương săn sóc nuôi dưỡng, cộng đoàn luôn no đủ. Điển hình như trải qua 2 năm covid-19 (2020-2022), trường không có học sinh, không dạy, không có thu nhập, nhưng hằng ngày vào nhà cơm vẫn đủ để chu cấp cho chị em. Chúa thương sai thiên thần đưa đến, qua những tấm lòng quảng đại xa gần gởi về nào gạo, mì gói, con tôm con tép, các loại củ quả, rau, cải xanh, rồi chị em lại đem chia sẻ cho người khác nữa, chan hòa tình thân! “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 22,1). Qua đó, cảm nghiệm sâu xa hơn về Tình yêu của Thiên Chúa là CHA, tình anh chị em đồng loại con một Nhà.

(Còn nữa)

Nữ tu Maria Nguyễn Thị Tuyệt