Lược Sử Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế – Cập Nhật Số Liệu 2024-2025

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ HUẾ (1719)

  1. Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc – Chiếc Nôi Của Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế (1719).

Tiếp tục đường lối truyền giáo và truyền bá linh đạo Mến Thánh Giá của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vị Giám Mục Tông Toà tiên khởi Đàng Trong, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, các linh mục thừa sai của Hội Thừa Sai Paris đã thiết lập thêm các Phước Viện Mến Thánh Giá trên đất nước Việt Nam để trợ giúp các linh mục bản xứ và thầy giảng trong công việc tông đồ.

Tại Địa Phận Bắc Đàng Trong, gồm ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng Bình, năm 1719, linh mục thừa sai Pierre de Sennemand (1660-1730), trong thời gian sống ở Thợ Đúc, đã lập một Phước Viện Mến Thánh Giá. Đây là dòng nữ đầu tiên tại Địa Phận Huế. Cha đã xây cho các chị một nhà ở, nhà nguyện và một bệnh xá lớn. Trong thời gian đó, hằng ngày ngoài các giờ thiêng liêng, các nữ tu lo dạy dỗ các thiếu nữ, điều khiển bệnh xá, giúp đỡ kẻ liệt và làm các việc từ thiện khác. Cha Pierre de Sennemand hướng dẫn Phước Viện suốt 11 năm. Ngày 25.01.1730, cha qua đời và được mai táng tại Thợ Đúc[1]. Sau đó, Thừa sai Charles de Flory thay quyền cha lo cho các chị, nhưng ngài cũng qua đời ba năm sau vào ngày 03.01.1733 tại họ Phủ Cam, tỉnh Thừa Thiên[2].

Đến thời Đức Cha Alexander ab Alexandris (1691-1738), thuộc dòng Barnabít, người Ý, làm Đại Diện Tông Tòa Đàng Trong (1728- 1738), vốn không có thiện cảm với các thừa sai Pháp, đã kịch liệt phản đối tất cả các công việc truyền giáo của các ngài. Vì thế, Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc bị bỏ rơi: nhà nguyện, nhà ở bị triệt hạ, chị em Mến Thánh Giá bị vạ tuyệt thông và tan tác, chỉ còn bốn chị sống nhờ ở nhà giáo dân. Ngày 27.7.1739, Đức Cha Elzeard des Achards de la Baume, Khâm Sứ Tòa Thánh đến Huế. Ngài gặp gỡ, lắng nghe lời thỉnh cầu của các nữ tu Mến Thánh Giá Thợ Đúc; giải vạ tuyệt thông và truyền lệnh kiến thiết Phước Viện lại như xưa. Nhưng ngài cũng đã qua đời hai năm sau đó vào ngày 02.04.1741[3][3].

Sau khi Đức Khâm sứ de la Baume từ trần, Thợ Đúc đã là một trung tâm Công Giáo với khoảng 800 giáo dân. Bên cạnh Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc có Chủng Viện Thánh Carôlô do cha chính de la Court (1740-1750) xây cất, có Toà Giám Mục do cha Armand François Lefèbvre (1709-1760) lập năm 1743.

  • Những cuộc bách hại:

Thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765): Năm 1750, Võ Vương hạ sắc dụ cấm đạo, Chủng Viện Thánh Carôlô và Toà Giám Mục bị tàn phá. Cha Francois Lefèbvre bán nhà thờ cho ông Hoàng, anh của Võ Vương để ông cho lính canh giữ hầu khỏi bị quan quân tàn phá. Trong tình thế nguy ngập nầy, mặc dù Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc vẫn được yên ổn, vì các chị sống tử tế và đang lo việc từ thiện tại bệnh xá; nhưng các nữ tu cũng xin Đức cha bán Phước viện cho ông Hoàng, ông không mua, nhưng hứa sẽ bảo đảm cho Phước Viện qua cơn cấm đạo[4].

Cuối năm 1750, Đức Cha chính François Lefèbvre, Đức Cha Phó F. Bennetat và tất cả các thừa sai bị trục xuất khỏi Đàng Trong. Năm 1752, Đức Cha Phó trở lại theo phái đoàn Pháp để thương thuyết, nhưng năm 1753 lại bị đuổi lần nữa. Kể từ đó, Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc thiếu vắng sự nâng đỡ của các thừa sai.

– Thời Tây Sơn (1771-1802):  Dưới thời Đức Cha Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine, 1771- 1799), Giám Mục Phó của ngài (1782) là Đức Cha Jean Labartette, sau là Đại diện Tông Toà Đàng Trong (1799-1822) đã tìm cách gầy dựng lại Phước viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc với một vài thay đổi. Ngài hướng dẫn Phước Viện phát triển song song với các Dòng Mến Thánh Giá Đàng Ngoài[5].

Vào những năm 1785-1786, cuộc chiến giữa anh em Tây Sơn và Chúa Nguyễn lại diễn ra ở mạn Bắc xứ Nam, cuộc tàn phá lan đến toàn cả Giáo Hội. Trong tình hình đó, Dòng Mến Thánh Giá cũng chịu ảnh hưởng như lời kể của Đức Cha Jean Labartette: “Chúng tôi có hai Nhà Dòng nữ mà mỗi nhà gồm có 20 người; còn lại một nhà, nhà kia đã bị loạn quân (Tây Sơn) phá đi, họ không phiền nhiễu ai cả. Các cô gái này được chia làm hai nhóm đang khi chờ đợi thời bình và có thể giữ luật lệ được”[6]. Liền sau cuộc tàn phá, các nhà được tái thiết và Phước viện hoạt động trở lại với số nữ tu tăng dần.

Năm 1798, một cuộc bách hại dữ dội hơn. Cuối năm 1797, Vua Cảnh Thịnh bắt được một lá thư của Nguyễn Ánh gởi cho Đức Cha Jean Labartette; nhà vua nghi ngờ người Công Giáo tiếp tay cho giặc, nên tháng 08.1798, đã ra chiếu chỉ cấm đạo. Quân Tây Sơn tưởng Đức Cha còn ở Thợ Đúc, nên xông vào Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc lục soát, phá nhà và vườn tược. Lúc bấy giờ có 34 nữ tu, một số ít đã di tản về gia đình, số còn lại bị hành hạ. Chín nữ tu trẻ tuổi bị trói, dẫn về đồn Phú Xuân, nhưng bà Bề Trên Thục, 72 tuổi, nhất định phản đối. Cùng lúc đó, cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu (1756-1798) đang trốn trong nhà ông Quyền, gần Phước Viện, cha thấy quân Tây Sơn khủng bố các nữ tu cách tàn nhẫn nên đã ra mặt và xưng mình là linh mục. Các chị chỉ bị trói mấy tiếng đồng hồ, nhưng nhà các chị đã bị vây hãm trong năm ngày bởi hai hàng lính tráng. Trong thời gian đó, người ta lấy đi tất cả những gì các chị có trong nhà, phá hủy khu vườn, và khi đuổi các chị đi, chỉ để cho các chị quần áo mang trên mình. Đó là số phận sáu nhà nữ tu ở mạn Bắc xứ Nam”. Cha Emmanuel Triệu đã bị bắt ngày 07.08.1798 và bị xử trảm ngày 17.9.1798 tại Bãi Dâu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên hàng Hiển Thánh ngày 19.6.1988.

Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long (1802-1819). Đức Cha Bá Đa Lộc là người đã giúp đỡ vua khi còn tìm đường cứu nước Ngài cho ông những phương tiện vật chất và quân sự, giúp ông chiến thắng Nhà Tây Sơn và Nhà Lê, đem lại sự thống nhất cho hai miền Nam Bắc sau 200 năm chia rẽ. Vì biết ơn Đức Cha nên nhà vua tỏ ra thân thiện với các thừa sai và người Công Giáo. Đức Cha Jean Labartette cai quản Địa Phận Bắc Đàng Trong cũng được gặp vua, và sau này Đức Cha đã lập nhiều Phước Viện Mến Thánh Giá trong khắp ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng trị và Quảng Bình.

– Thời Vua Minh Mạng (1820-1840)

Vua Minh Mạng là một người thông minh, hiếu học; vì không thích đạo mới nên đã nghiêm cấm và trừng trị người Công Giáo vì cho họ theo tà đạo. Năm 1833, vua ra sắc dụ cấm đạo, truyền triệt hạ và sung công nhà thờ họ Thợ Đúc, giao cho làng Dương Xuân Hạ làm đình. Thợ Đúc cũng là nơi pháp trường hành hình, xử tử người có đạo. Chính nơi đây, cai đội Phaolô Tống Viết Bường đã bị chém trước nền nhà thờ năm 1833. Linh mục thừa sai Joseph Marchand Du (1803-1835) cũng đã bị xử bá đao tại Thợ Đúc[7].

Cây non Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc chỉ mới mọc lên, chưa có thời gian để trổ ngành sinh ngọn thì bao giông tố đã vùi dập và làm tan tác. Chị em đã bị giải tán về nhà cha mẹ, và chỉ tụ tập lại Phước Viện sau cuộc bách hại. Cuộc bách hại thứ hai tiếp tục tàn phá những gì cuộc bách hại thứ nhất để lại hoặc những gì vừa được tái thiết. Các nữ tu Huế mới vừa tụ tập, lại bị phân tán[8]. Đến năm 1840, Phước viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc còn lại 15 chị. Bà Anna Madalena Ngọ 65 tuổi (người thứ 1 trong danh sách), chị Matta Hoãn 83 tuổi (lớn nhất) và chị Inê Nay 20 tuổi (trẻ nhất).[9]

Năm năm sau cơn Phân Sáp (1862) dưới thời Vua Tự Đức, trong một thông cáo gởi về Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin ngày 08.8.1867, Đức Cha Joseph Hyacinthe Sohier Bình (1823-1876) có viết:”Tại Thừa Thiên có hai Phước Viện Mến Thánh Giá, là Phước Viện Phủ Cam và Phước viện Dương Sơn”[10]. Như thế, Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc có thể đã được bải bỏ vào trước năm 1867.

Linh mục Thừa sai Léopold Cadière Cố Cả (1869-1955) cũng viết: “Ở phía sau đình làng Dương Xuân Hạ và ở dưới chân thành Lồi, ngày xưa có nhà thờ họ Thợ Đúc, do các cha Thừa sai Pháp làm, có Phước Viện Mến Thánh Giá do Cha Pierre de Sennemand xây cất và có toà Giám Mục của Đức Cha François Lefèbvre”.

Theo lời kể của linh mục Tống Văn Hộ (1884-1968) người Thợ Đúc, thì tại họ đạo Trường An, trong một khu vườn ở xóm Vĩnh An, có một cái giếng rất cổ gọi là giếng Bà Ngọ. Nếu giếng Bà Ngọ ở đây chỉ là ‘Bà Bề Trên Ngọ’, thì đây là cái giếng của Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc ngày xưa. Ngày nay, dân địa phương vẫn còn gọi là giếng Bà Ngọ[11].

Chị em Mến Thánh Giá trong buổi sơ khai đã có rất nhiều cố gắng để tồn tại giữa bao nghịch cảnh do sự tàn phá của chiến tranh, bắt bớ, tai ương và ôn dịch. Tuy vậy, tinh thần tu trì, lòng đạo đức của các chị không vì thế mà bị giảm sút. Chúng ta có thể cảm nhận được điều này qua lời chứng của Đức Cha Jean Labartette. Ngài đã ví các nữ tu Đàng Trong như là các chị “Chatreuses” mới: “Về lòng sốt sắng, tôi sẽ nói hết trong đôi lời, vì biết rằng về điểm này các chị Mến Thánh Giá không thua kém gì những nữ tu sốt sắng nhất Âu Châu, và chúng tôi lấy làm an ủi thấy các chị tiến bước trong con đường và trong việc thực hành các nhân đức cao nhất; điều đó với cúng một nhiệt khí và một lòng can đảm anh dũng, mà chúng ta ngưỡng mộ nơi truyện các thánh nam nữ Âu Châu”[12].

 

 

  1. CÁC PHƯỚC VIỆN MẾN THÁNH GIÁ HUẾ QUA CÁC BIẾN CỐ

Trong khoảng thời gian từ 1780- 1812, Giáo Hội Công Giáo tương đối được bình yên, nên Đức Cha Labartette đã lập thêm Phước Viện Di Loan (năm 1780), Phước Viện Kẻ Bàng và Phủ Cam (1797), Phước Viện Nhu Lý, Bố Liêu, Mỹ Hương, Trung Quán, cô nhi viện và Phước Viện Sáo Bùn (khoảng từ 1805-1812).

Trong thời Văn Thân các Phước Viện Bố Liêu, Nhu Lý hoàn toàn bị phá hủy. Sau đó, Đức Cha Caspar đã thiết lập tạm thời Phước Viện Kim Long cho các nữ tu sống sót tá túc. Ngài cũng lập hai Phước Viện khác ở Tam Toà (1892) cho các chị Mỹ Hương, và Trí Bưu cho các chị thuộc Bố Liêu. Như vậy sau thời Văn Thân còn lại sáu Phước Viện là: Di Loan, Kẻ Bàng, Phủ Cam, Dương Sơn, Trí Bưu và Tam Toà.

Năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, Phước Viện Di Loan di dời vào La Vang và Phước Viện Tam Toà vào Thanh Tân là cơ sở nuôi trẻ mồ côi của Tu Viện Dương Sơn. Các chị tại Phước Viện Kẻ Bàng nhập vào Phước Viện Phủ Cam. Như vậy còn lại năm Phước Viện: Phủ Cam. Dương Sơn, Kim Long, Trí Bưu và La-Vang[13]. Chúng ta sẽ lần lượt điểm qua một vài giai đoạn lịch sử quan trọng.

2.1. Phước Viện Mến Thánh Giá Di Loan

Năm 1776, cha Jean Labartette rời họ Thợ Đúc ra ở Di Loan. Sau khi tổ chức khá ổn định giáo họ mới, cha đã lập một Phước Viện mang tên Phước Viện Mến Thánh Giá Di Loan vào năm 1780, như lời ngài kể trong một bức thư đề ngày 14.07.1784: “Tôi đã lập Phước Viện Mến Thánh Giá Di Loan cách đây bốn năm. Các nữ tu sống thinh lặng, tĩnh mịch, không giao thiệp với người đời. Các chị được tiếng tốt đối với dân chúng”[14].

Năm 1786, trong cuộc cướp phá của quân Tây Sơn, Phước Viện Di Loan cũng bị đánh tan tành. Đức Cha Labartette[15] đã cho sửa sang lại nhà cửa và Phước Viện hoạt động trở lại, nhưng được mấy năm thì lại bị Tây Sơn hủy hoại (1792). Sau đó, Phước Viện lại được cha Doussain tái thiết như lời ngài kể năm 1797: “Tôi vừa tái thiết Phước Viện Di Loan. Tôi làm ba cái nhà, không biết rồi đây có bị Tây Sơn phá lại không. Số nữ tu đã lên tới 30 người mà còn nhiều thanh nữ xin vào thêm ”[16].  Trải qua bao sóng gió, người tín hữu và nữ tu tại giáo họ Di Loan vẫn luôn can đảm, trung thành với đức tin. Tuy nhiên, sự tàn ác của Tây Sơn không khỏi làm lòng dân chán ghét và mong chờ Chúa Nguyễn giải thoát. Trong dân gian bấy giờ có câu hát:

Lạy Trời cho chóng gió nồm.  

Để thuyền Chúa Nguyễn dông buồm thẳng ra.

Chính Đức Cha Labartette đã gởi thông báo dạy chị em Mến Thánh Giá Di Loan tổ chức Tuần Cửu nhật để xin hòa bình mau trở lại. Và theo lời kể của Đức Cha: “Ngày 12.06, lễ Kính Trái Tim Chúa, các nữ tu Di Loan bế mạc Tuần cửu nhật cầu an, thì chúng tôi được tin quân của Nguyễn Ánh đã tới Huế. Quân Tây Sơn vỡ tan”[17]. Phước Viện được bình an và phát triển một thời gian lâu dài.

 

2.2. Phước viện Mến Thánh Giá Phủ Cam

Một vài tài liệu lịch sử của Dòng có ghi lại: Phước Viện Mến Thánh Giá Phủ Cam do Đức Cha J. Labartette lập trong thời kỳ bình yên (đời Vua Gia long). “Trong số sáu Tu Viện Mến Thánh Giá Địa Phận Huế, có năm Tu Viện ở vùng nông thôn yên tĩnh. Riêng Tu Viện Mến Thánh Giá Phủ Cam lại tạo lạc trên một sở đất rất đẹp gần cầu Phủ Cam, bên bờ ‘sông An Cựu nắng đục mưa trong’. Bây giờ tuy còn là vùng ngoại ô Huế, nhưng lại quá gần trung tâm, không tránh khỏi phiền nhiễu bởi cảnh đô hội, nhất là từ ngày đường hoả xa được thành lập, chạy sát bên Tu Viện, thì tiếng ồn và sự rung chuyển quá mức chịu đựng của Tu Viện vốn cần yên tĩnh. Đức Cha Eugène-Marie Joseph Allys Lý (1852-1936) đã cho phép dời Tu Viện lên phía sau nhà thờ Phủ Cam”[18]. Tu viện Phủ Cam tồn tại cho đến ngày nay.

2.3. Phước viện Mến Thánh Giá Dương Sơn

Năm 1828, linh mục thừa sai François Jaccard Phan (1799-1838) được vua Minh Mạng mời về kinh đô để làm thông dịch cho Vua. Sau đó, cha xin ra ở họ Dương Sơn cách kinh thành Huế 12km. Bấy giờ, cha Jaccard Phan được Đức Cha Jean Louis Taberb Từ (1794-1840) ở Saigòn chọn làm cha chính giáo đoàn kinh đô. Sau khi đã hội ý Đức Cha Từ, cha Jaccard Phan giải tán và đóng cửa Chủng Viện An Ninh để lập Chủng Viện mới tại Dương Sơn năm 1829. Đồng thời, cha đưa các nữ tu Mến Thánh Giá Di Loan đã phục vụ tại Chủng Viện An Ninh vào tiếp tục phục vụ Chủng Viện mới. Sau đó, cha đã thành lập Phước Viện Dương Sơn vào khoảng năm 1829 dưới thời vua Minh Mạng [19]. Cũng theo lời hai vị Thừa sai P. Guillot Cao và A. Chapuis Châu, chính các nữ tu đã sống trong Phước Viện Dương Sơn vào năm 1840, tức là 10 năm sau khi Phước Viện Dương Sơn được xây cất, đã nói rằng: Cha Chính Jaccard Phan đã lập Phước Viện Mến Thánh Giá Dương Sơn[20].

Phước Viện đã bị bãi bỏ một thời gian do ảnh hưởng của vụ án xảy ra giữa làng Dương Sơn và Cổ Lão năm 1831[21], vài năm sau đó đã được tái lập, và mặc dù cơn bắt đạo thời Minh Mạng trải qua gần tám năm (1833- 1840) nhưng các Phước Viện tương đối được yên ổn. Theo các sử gia đó là do “cách ăn mặc bề ngoài của các nữ tu không khác gì những người thế gian, nhà các chị không có nội cấm và mọi người được tự do ra vào với sự thỏa thuận của bà Bề Trên, các nữ tu cũng làm ruộng vườn, bán thuốc viên và làm nghề canh cửi, vá may nên không ai phá rối. Lại nữa, vì thường thường ít người để ý tới đàn bà, hơn nữa luật nhà nước xử tử những ai dám khám phá dưới áo phụ nữ. Chính vì thế mà năm 1855. Đức Cha Pellerin Phan đã trình với Tòa Thánh: ở Huế có tám Phước Viện với 300 nữ tu. Riêng về số nữ tu của Phước Viện Dương Sơn trong năm 1840, cuối đời Minh Mạng, chỉ có 18 người”[22].

Cha Jacard Phan đã được phúc tử đạo ngày 21.9.1838 tại Nhan Biều, Quảng Trị, và đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong Hiển Thánh ngày 19.08.1988.

2.4. Phước Viện Mến Thánh Giá Nhu Lý (1885)

Nhu Lý là một giáo xứ có rất lâu đời trong lịch sử Địa phận Đàng Trong từ thế kỷ XVII, thời các cha Dòng Tên ở giai đoạn đầu (1617-1672). Đây là một xứ đạo toàn tòng Công Giáo, đã từng được các Đức Giám Mục khen ngợi, như Đức Cha Longer Gia, Đức Cha Jean Labartette, Đức Cha Étienne Cuenot Théodore Thể (1802-1861). Tại đây có một cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá do Đức Cha Jean Labartette thành lập, có lẽ vào những năm cuối thế kỷ XVIII.

Năm 1831, linh mục thừa sai Delamotte Y sang Việt nam, lưu lại Phước Viện Mến Thánh Giá Nhu Lý. Ngài là một thừa sai hằng lưu tâm củng cố và xây dựng các cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá. Theo lời ngài kể thì trong thời gian bắt đạo, “tất cả các nữ tu thuộc những nhà trong vùng đó đều đã phân tán. Các nữ tu quay trở lại nhà cha mẹ mình, chỉ còn một vài chị cứng rắn nhất và là người dân làng thì ở lại trong Dòng trông coi nhà cửa; duy có các nữ tu Nhu Lý là nơi tôi đã ở từ khá lâu nay thì còn đứng vững, bởi vì có tôi đây; chẳng vậy, chắc các chị cũng sẽ sớm như những chị em khác thôi…” ; nên sự hiện diện của ngài ở đây thực là một may mắn lớn cho Phước Viện Nhu Lý [23].

Tuy nhiên, năm 1839-1840, Vua Minh Mạng cấm đạo, có cuộc lùng bắt thừa sai Delamotte Y đang ẩn lánh tại họ đạo Nhu Lý và Phước Viện Mến Thánh Giá Nhu lý. Họ cũng lùng bắt những người khác, trong đó có chị Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu. Bà Bề Trên Phước Viện Mến Thánh Giá Nhu lý là Phan Thị Khiêm, 93 tuổi, cũng bị đòi lên tỉnh Quảng Trị để hỏi cung vì tội chứa chấp tây dương đạo trưởng, nhưng bà không bị hành xử vì đã quá lớn tuổi.[24] Riêng chị Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu đưuọc xem như vị tử đạp đầu tiên của Dòng Mến Thánh Giá Huế vào ngày 30.01.1841. Tấm lòng can đảm, gương anh hùng của chị Hậu đã được chính Vị Đại Diện Tông Tòa thuật lại như sau: “Một  học sinh và một người đầy tớ của cha (Caldalh), một nữ tu, những đầu mục làng (Nhu Lý) và các thầy giảng đã bị bắt và phải mang gông. Tiếp đến chị đã bị tra hỏi, chị trả lời quan án một cách đáng thán phục: ‘Quan có chém tôi ra làm ba, tôi không sợ đâu’[25]. Ba năm sau khi chị Hậu từ trần, Đức Cha Cuenot Thể nói: Bản án ấy cũng nói đến lòng kiên trì của chị Maria Mađalêna Hậu…chị đã chịu hình phạt…và chị từ trần vì những sự hành hạ tra tấn cực hình và những đau đớn đã chịu như tôi đã kể trong những lá thư trước đây”[26].

  1. Biến cố Văn Thân, các chị Mến Thánh Giá bị tàn sát tại Quảng Bình, Quảng Trị (1885-1886)

Cơn Phân Sáp dưới thời vua Tự Đức (1847-1883) đã tiêu diệt bao người Công Giáo, đây là chiến thuật đau khổ lâu dài và tang thương nhất cho người Kitô hữu. Nhất là những năm từ 1856-1860, cơn bắt đạo trở nên gay gắt vì Tự Đức thẳng tay phá đạo. Giữa cơn bắt đạo dữ dội đó, tất cả các Phước Viện bị giải tán. Trong thư gởi các Linh mục năm 1859, Đức Cha Joseph Sohier Bình[27] viết: “… ta luôn luôn đau đớn bồi hồi vì thấy các Phước Viện Mến Thánh Giá trong toàn Địa Phận bị tan hoang hủy hoại, các nữ tu phải phân tán về gia đình và ở giữa thế gian với bao nhiêu nguy hiểm khốn khó. Chính vì đó ta xin quý cha phải coi sóc, lo lắng cho các nữ tu để họ có thể chu toàn nhiệm vụ và giữ đức trinh khiết cùng làm gương tốt, nhờ đó Chúa được vinh danh và đạo thánh được tiếng tốt”[28]

Sau cơn Phân Tháp, Đức Cha còn sống thêm 14 năm nữa. Lúc ở Huế, ngài cố gắng tổ chức lại mọi công việc trong Địa Phận mặc dù gặp nhiều trở ngại. Ngài tận tâm tái lập các Phước Viện Mến Thánh Giá, về tinh thần cũng như vật chất, sau những cơn bắt bớ cấm cách, ngài bắt đầu lại từ những gì có thể: lập các viện dục anh nuôi trẻ tại Sáo Bùn (Quảng Bình), Kim Long (Huế), Thanh Tân (Thừa Thiên) và giao cho chị em Mến Thánh Giá coi sóc.

Nhưng tình hình chính trị của đất nước trong thời gian từ năm 1883-1886 lại xảy ra thảm cảnh tương tàn hơn. Phong trào Văn Thân và Cần Vương, với khẩu hiệu “Bình Tây Sát tả” gây tang tóc cho Địa phận. Năm 1883, sau khi vua Tự Đức băng hà, người Pháp chiếm cửa Thuận An, hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cho quân Đoàn Kiệt đi giết hại các giáo hữu ở Cầu Hai, Nước Ngọt, Truồi, Châu Mới, Buông Tằm thuộc tỉnh Thừa Thiên, lần này các Phước Viện Mến Thánh Giá được tai qua nạn khỏi.

Năm 1885, Tôn Thất Thuyết ra lệnh cho quân ta tấn công đồn Mang Cá và Toà Khâm của Pháp nhưng thất bại. Tôn Thất Thuyết phải hộ giá vua Hàm Nghi (1884-1885) chạy ra Tân Sở, Quảng Trị và lại mở chiến dịch “Cần Vương”. Từ lúc đó, nhóm Văn Thân và thuộc hạ lại ra sức giết hại người Công Giáo ở Dinh Cát, Quảng Trị và Quảng Bình (1885-1886). Cả Địa phận Huế có 12 linh mục, hơn 70 nữ tu Mến Thánh Giá và khoảng 8.950 giáo dân bị sát hại. Nhà cửa, vườn tược, nhà thờ, chủng viện, phước viện, của cải ruộng vườn của người Công Giáo đều bị cướp phá. Năm 1885, kinh đô thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra trốn ở Tân Sở, Quảng Trị, sau ra Quảng Bình… và mật dụ cho Văn Thân đuổi Tây giết đạo không khoan nhượng.

Tháng 09.1885, giáo dân nhiều họ đạo Quảng Trị bị thiêu sống. Tháng 01.1886 giáo dân ở Quảng Bình cũng lâm vào số phận đó. Lần nầy bốn Phước Viện Mến Thánh Giá Bố Liêu, Nhu Lý, Di loan (Quảng Trị) và Mỹ Hương (Quảng Bình) bị tổn thất nặng nề, hầu như là bình địa[29].

3.1. Phước viện Mến Thánh Giá Bố Liêu – Quảng Trị bị huỷ hoại 1885

Ngày 06.9.1885, Văn Thân chiếm tỉnh thành Quảng Trị và lệnh thiêu sống giáo dân trong tỉnh. Cha Huấn, người Dương Lệ Văn, làm cha sở họ Bố liêu và là Bề Trên Phước Viện Bố Liêu. Lúc sáu giờ chiều ngày 06.9, cha Huấn, 40 nữ tu và khoảng 400 giáo dân chạy qua làng An Lộng tị nạn, rồi ra bãi biển để chạy bộ vào Huế (khoảng 60km). Tối ngày 08.9 mới tới cửa Thuận An, sau đó cha con lên gặp Đức Giám Mục Huế là Đức Cha Louis Caspar Lộc (1841-1971) đang coi sóc Địa Phận. Số giáo dân còn ở lại khoảng 100 và một ít nữ tu, khi hay tin Văn Thân tàn sát thì chạy vào nhà thờ đóng cửa lại. Ngày 07.09, theo lệnh Văn Thân, các làng chung quanh đến bủa vây họ đạo Bố Liêu, chúng phá tu viện, nhà cửa, vườn tược và cướp phá của dân. Số nữ tu và giáo dân vào nhà thờ trú ẩn đều thiệt mạng thì bị chúng phóng hoả đốt cháy. Như thế, hơn 100 năm xây dựng và phát triển bây giờ chỉ còn lại đống tro tàn. Sau này, số các chị sống sót, đã xây dựng lại tu viện ở nơi khác tại làng Cổ Vưu. Đó chính là Phước Viện Mến Thánh Giá Cổ Vưu (Trí Bưu).

3.2. Phước viện Mến Thánh Giá Nhu Lý, Quảng Trị năm 1885[30]

Năm 1884, Phước viện Mến Thánh Giá Nhu Lý có khoảng hơn 60 nữ tu. Năm 1885, giữa lúc ly loạn Văn Thân, các nữ tu và gần 450 giáo dân đã di tản lên giáo xứ Dương Lộc mong trốn được sự tàn sát của người ghét đạo. Ngày 07.9.1885, trống giục liên thanh trong các làng lân cận, nhiều người Văn Thân có khí giới tiến về Nhu Lý, họ giết sạch các giáo dân còn lại.

Khi ấy, tại Dương Lộc có bốn linh mục, 58 nữ tu Mến Thánh Giá Nhu Lý và trên 2.500 giáo dân lân cận cùng tập trung. Quân Văn Thân kéo đến rất đông; những lần đầu giáo dân chống cự mạnh mẽ và toàn thắng. Ngày 08.9, Văn Thân trở lại trang bị đầy đủ khí giới hơn, giáo dân vẫn chống cự không nao núng. Cuối cùng, Văn Thân phóng hoả vào làng, nhà cửa, ruộng vườn, lũy tre bốc cháy dữ dội, giáo dân, các nữ tu ở trong nhà thờ đều bị chết thiêu. Quân Văn Thân còn xông vào chém giết, càn quét trong những ngày sau nữa. Khi đã tàn trận, chỉ còn sống sót một vài người, kẻ bị thương, người đói lả… Đức Cha Caspar Lộc đã thuật lại sự can đảm của Bà Hớn, Bề Trên Phước Viện Nhu Lý và một nữ tu khác là cháu của bà không bị chết thiêu. Một tên Văn Thân bảo bà theo nó, nó sẽ để cho bà sống. Nhưng bà đã mắng nó và không theo lời nó yêu cầu; tên Văn Thân bắt bà và nữ tu đó nằm xuống trên những xác chết dưới cái hầm lớn rồi chôn sống cả hai[31].

3.3. Phước viện Mến Thánh Giá Di Loan bị đốt năm 1885

Ngày 08.09.1885, quân Văn Thân đến đánh giáo họ Di Loan nhiều lần, và họ vẫn thua vì bị giáo dân chống cự khá mãnh liệt, nhưng cha chính Đăng hạ lệnh rút lui và đi vào Chủng Viện An Ninh. Cuộc di tản gấp rút, bỏ lại phía sau những gì họ có. Nhà thờ, Phước Viện, nhà cửa giáo dân đều bị đốt phá sạch. Tại Chủng Viện, các chị lớn tuổi thì cầu nguyện với những người lớn và trẻ em, các chị khác giúp nấu cơm tiếp tế cho các tiểu đội được phân chia đối phó với Văn Thân. Ở đây, do sự điều khiển khôn ngoan của quý cha, giáo dân chống trả với quân Văn Thân cho đến khi có người từ Huế ra tiếp viện. Các chị Mến Thánh Giá Di Loan được an toàn tính mạng.

Trải qua bao cuộc đàn áp của quân Văn Thân, Phước Viện Di Loan vẫn tồn tại ở làng Di Loan, Quảng Trị. Năm 1954, Phước Viện di cư vào La Vang.

3.4. Phước viện Mến Thánh Giá Mỹ Hương và Kẻ Bàng (Quảng Bình) bị đốt năm 1886.

Tháng 01.1886, quân Văn Thân bất ngờ đến tàn sát giáo dân Quảng Bình, các nữ tu phải chạy thoát thân, nhà cửa phước viện bị đốt phá. Giáo dân và các nữ tu được cha Héry Y đưa về tạm trú gần Đồng Hới. Tháng 08.1886, Quân Văn Thân lại đến tàn sát giáo dân họ Sáo Bùn… mọi người khiếp sợ và chạy như lần trước. Năm 1886, tại Đồng Hới có một trại định cư, linh mục thừa sai Bonin tổ chức một họ đạo mới, gọi là Tam Toà. Các chị Mến Thánh Giá Mỹ Hương ở lại đây, sau được gọi tên là Nhà Phước hay là Tu Viện Tam Toà [32].

Đầu tháng 07.1886, Văn Thân cũng đến tấn công họ Sen Bàng và Phước Viện Mến Thánh Giá Kẻ Bàng, nhưng nhờ có sự giúp đỡ của quân đội Pháp đóng gần đó nên Phước Viện không bị thiệt hại. Sau biến cố Văn Thân, Địa Phận Huế còn lại sáu Phước Viện Mến Thánh Giá: Phước Viện Dương sơn, Phủ cam thuộc tỉnh Thừa Thiên; Trí Bưu (Cổ Vưu), Di Loan thuộc tỉnh Quảng Trị ; Kẻ Bàng, Tam Toà thuộc Quảng Bình.

Hiện nay, tại các giáo xứ Dương Lộc, Trí Bưu, Bố Liêu đều có lăng tử đạo của các tiền nhân cũng như chị em Mến Thánh Giá như là chứng tích hùng hồn của đức tin và niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn trọng đại cho các tiền bối của chị em Mến Thánh Giá về niềm tin và tình yêu dành cho Chúa Giêsu-Kitô-Đóng-Đinh. Các lăng tử đạo nầy được xây dưới thời Đức Cha Louis Caspar Lộc, sau thời kỳ “Bình Tây Sát Tả “.

Sau những nỗi khiếp sợ về loạn Văn Thân, chị em Mến Thánh Giá ổn định, xây dựng lại nhà cửa Phước Viện hầu có nơi ăn chốn ở, có việc làm và có thời gian để cùng nhau lo việc tông đồ theo lời mời gọi của Địa phận.

Cha Cadière, một nhà sử học, đã để lại một tài liệu viết về đời sống chị em Mến Thánh Giá trong Địa Phận Huế vào đầu thế kỷ XX như sau: “Trong miền truyền giáo Bắc Nam Bộ có sáu Tu Viện, số nữ tu của mỗi nhà là 61, 69, 73, 72, 45 và 34, tất cả có 354 nữ tu. Lề luật không quá nghiêm khắc: ban sáng đọc kinh, nguyện ngắm, tham dự Thánh Lễ rồi lao động tay chân. Ban trưa: xét mình cá nhân. Sau nghỉ trưa, đọc kinh và tiếp tục công việc. Vào chiều tối, lời kinh sốt sắng, êm ái, những kinh này dài hơn những kinh tín hữu thường quen đọc. Công việc của các nữ tu là làm bông vải cho người Việt và nhiều loại tơ lụa khác nhau mà các chị bán trong xứ…”[33] .

Năm 1932, trong bản báo cáo gửi về cho Bộ Truyền Giáo, Đức Cha Alexandre Chabanon Giáo (1873-1936) viết về các chị Mến Thánh Giá Huế với những lời lẽ tốt đẹp như sau: “…có 20 địa điểm truyền giáo của các chị Mến Thánh Giá, tuy rất âm thầm khiêm tốn, nhưng rất thân thiện, dễ gần gũi, vui vẻ, tiếp đón các bệnh nhân trong nghèo khó, đơn sơ, phó thác cho Cha trên trời, sống thật với cái tên Mến Thánh Giá đẹp đẽ sâu xa của họ”[34].

Năm 1937, Đức Cha François Arsène Lemasle Lễ (1874-1946), trong bản báo cáo thường niên gởi về Bộ Truyền Giáo có đoạn viết như sau: “Cha Cadière làm Bề Trên giáo hạt Đất Đỏ cũng lo chăm sóc một Tu Viện Mến Thánh Giá, trong đó có 12 nữ tu được sung vào các trường khác nhau và nhiều nữ tu khác sắp lo dạy giáo lý và các kinh nguyện cho các trẻ ở những họ đạo lân cận. Tại Tu Viện Mến Thánh Giá Di Loan, cha Cadière đã hoàn chỉnh một xưởng dệt lụa rất đắT hàng trong các môi trường Châu Âu và Việt Nam”[35].

  1. Cuộc di cư vào Nam năm 1954

Đầu thế kỷ XX, các Phước Viện Mến Thánh Giá từng bước xây dựng lại nhà cửa, mặc dầu là nhà tranh vách đất, nhưng có phần khang trang hơn. Từ năm 1908-1931, dưới thời Đức Cha Allys cai quản Địa Phận là giai đoạn huy hoàng nhất của lịch sử Địa Phận sau những cấm cách bách hại. Các Phước Viện Mến Thánh Giá cũng đi trong sự tiến triển đó. Chương trình truyền giáo, giáo dục và xã hội được quan tâm. Các cha thừa sai làm Bề Trên các Phước Viện cũng canh tân, dạy dỗ để các chị có thể đáp ứng được phần nào các nhu cầu cấp thiết.

Tháng 07.1954, chiến tranh lại xảy ra. Biến cố chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17, lấy sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị làm ranh giới. Địa Phận Huế gồm ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên bị chia đôi Nam và Bắc từ sông Bến Hải. Các họ đạo bên phía Bắc cầu Hiền Lương đi vào miền Nam, các Phước Viện Mến Thánh Giá Kẻ Bàng, Tam Toà (Quảng Bình), Di Loan (Quảng Trị) cũng theo đoàn dân di cư vào Nam, nhưng không đi xa mà chỉ ở lại trong phần đất Địa Phận Huế của mình. Các chị bỏ lại tất cả những gì đã xây dựng trong hơn nửa thế kỷ qua. Phước Viện Mến Thánh Giá Di Loan được Bề Trên cho ở tại linh địa Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị), Phước Viện Tam Toà ở Thanh Tân (Thừa Thiên).  Phước Viện Mến Thánh Giá Kẻ Bàng ở Truồi (Thừa Thiên), đến năm 1965, chỉ còn 15 vì các chị đã nhập vào Phước viện Mến Thánh Giá Phủ Cam. Các Phước Viện di cư vào bên này sông Bến Hải (Hiền Lương) lại bắt đầu một hành trình mới nơi vùng đất mới. Các Phước Viện độc lập từ tinh thần đến vật chất, và có Cha Bề Trên riêng.

Năm 1956-1968, cuộc sống cũng sớm ổn định, phần đông các Phước Viện bỏ bớt các công việc tay chân đồng áng, dệt cửi … chuyển qua các sứ vụ mới như: phụ trách điều hành và dạy học từ bậc tiểu học đến trung học, phục vụ bệnh viện, bệnh xá; dấn thân mục vụ : dạy giáo lý, giúp các hội đoàn, truyền giáo … Chị em phần đông theo học các lớp văn hoá của Bộ Giáo Dục để lấy văn bằng cao hơn hầu theo kịp đà tiến của xã hội.

  1. Công cuộc canh tân và hiệp nhất

Được lớn lên trong hồng ân qua nhiều biến cố thời cuộc, Dòng Mến Thánh Giá Huế giờ đây như một con sông lớn, được quy tụ bởi dòng suối các Phước Viện Mến Thánh Gía trong Giáo phận chảy về.

Năm 1961, Đức Giám Mục Phêrô Martinô Ngô Đình Thục được chọn làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế. Ngài đã thực hiện việc canh tân và hiệp nhất các Phước Viện Mến Thánh Giá trong Giáo Phận thành một Dòng duy nhất với tên gọi: Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế. Bản Hiến Chương đã được Đức Thánh Cha Gioan XXIII phê chuẩn vào ngày 05. 03. 1962.

Năm 1962, Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền tiếp nối công trình của vị tiền nhiệm, ngài cùng với linh mục Giuse Trần Văn Tường và các nữ tu Dòng Thánh Augustinô tại Đà Lạt, cho phép một số chị em Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế đã được gởi lên Đà Lạt để được hướng dẫn về tu đức, các lời khấn, theo chương trình canh tân và hiệp nhất, do các nữ tu Dòng Thánh Augustinô đảm nhận. Ngày 07.06.1965, tám chị em chính thức tuyên khấn theo Giáo Luật. Ngày 03.06.1967, Dòng tổ chức Tổng Tu Nghị đầu tiên. Bề Trên của Dòng được gọi là Tổng Viện Trưởng Dòng Mến Thánh Giá Hiệp Nhất của năm Tu Viện và Ban Tổng Cố Vấn Dòng là năm Tu Viện Trưởng của năm Phước Viện.

Dòng Mến Thánh Giá Huế bước đầu phải trải qua nhiều khó khăn từ tinh thần lẫn vật chất. Dầu giữa bao thăng trầm, Thiên Chúa vẫn yêu thương quan phòng cho Dòng được bình yên tiến lên theo đường lối của Ngài.

II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH

  1. Phát Triển

Như đã trình bày ở trên, Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế có những khó khăn tất yếu trong quá trình hình thành và phát triển. Sau việc cải tổ và hiệp nhất năm Tu Viện thuộc trong ba tỉnh Miền Trung, Dòng đã trải qua mấy cuộc phong trần, gian khổ. Là một Dòng khá lâu đời trên đất kinh thành Huế cổ kính (1719), nhưng các chuyến di cư vào Nam năm 1954, biến cố Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, và biến cố 1975, như những cuộc thanh luyện theo chương trình của Thiên Chúa đã đưa chị em đến những vùng đất xa lạ hơn.

Năm 1972, nhất là năm 1975, chị em phần đông di tản vào miền Nam sinh sống và làm mục vụ tông đồ, hợp thành nhiều cộng đoàn tại Phan Thiết, Xuân Lộc và Cam Ranh. Phần lớn chị em gốc Phước Viện Tam Toà vào Bình Tuy, và năm 1983 đã hình thành Hội dòng mới: Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết. Riêng các cộng đoàn thuộc miền Huế – Xuân Lộc, trở thành Hội Dòng Mến Thánh Giá Bà Rịa vào năm 2008. Hai Hội Dòng trên đây lớn mạnh cùng với 24 Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam. Số chị em khác ở vùng Cam Ranh đã phát triển thêm trong tỉnh Khánh Hoà.

Hiện nay, Giáo Phận Nha Trang có chín cộng đoàn Mến Thánh Giá Huế. Ngoài ra, chị em đang phục vụ tại Vạn Tượng (Lào) từ năm 1962-1975, đã cùng với dân chúng di tản ra nước ngoài, lập thành các cộng đoàn Mến Thánh Giá đầu tiên tại hải ngoại. Đó là gốc tích của các cộng đoàn ở Pháp và Ý.

  1. NHÂN SỰ

Qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, Dòng Mến Thánh Giá phải long đong vất vả vượt qua nhiều thử thách để tồn tại…Số nhân sự lúc nhiều, lúc ít, lúc hợp, lúc tan, tùy theo hoàn cảnh của đất nước qua các cuộc chính biến và bách hại. Vào những lúc khó khăn, chị em sống âm thầm, lẩn tránh hay trở về gia đình. Khi bình yên, chị em trở về và dẫn theo nhiều quảng đại dâng mình cho Chúa.

Theo thống kê năm 2024-2025, nhân sự Hội Dòng: Khấn trọn: 428 ; Khấn tạm: 65 ; Tập sinh: 22 ; Tiền tập sinh: 12 ; Thanh Tuyển sinh: 30

  1. Cơ Sở

– Nhà Mẹ:

Địa chỉ: 113 Trần Phú, thành phố Huế

ĐT       :  (023) 43824594

Email : huemtg@gmail.com

Website : menthanhgiahue.org

– Các cộng đoàn: Hội Dòng có 60 cộng đoàn, phục vụ trong bốn Giáo Phận tại Việt Nam : Huế (38), Đà Nẵng (4), Nha Trang (8), Sài Gòn (5) ; và ba Giáo Phận ở hải ngoại : Pháp (3), Ý (1) và Hoa Kỳ (1).

  1. Hoạt Động Tông Đồ

Gắn bó với Giáo Hội địa phương trong công cuộc loan báo Tin Mừng, chị em dấn thân trong các sinh hoạt mục vụ tại các giáo xứ: dạy giáo lý các cấp, dạy dự tòng, chuẩn bị hôn nhân, phụ trách ca đoàn, lớp tình thương; phục vụ tại Tòa Giám Mục, khách hành hương ở trung tâm hành hương La Vang… Bên cạnh đó, Hội Dòng cũng tham gia công tác giáo dục và các hoạt động xã hội: mở nhà trẻ và mẫu giáo, dạy kèm, chăm sóc nuôi dạy các em khuyết tật, mồ côi, đồng bào thiểu số; khám bệnh và phát thuốc cho khiếm thị; làm dự án giúp đỡ các em học sinh nghèo vùng quê, bảo trợ và giúp vốn cho nhiều hội người mù, nuôi nấng bảo vệ các thiếu nữ lầm lỡ, nồi cháo tình thương cho bệnh nhân nghèo (Đông Hà, Quảng Trị).

Hiện nay, Hội Dòng có ba trung tâm nuôi dạy các em khuyết tật và mồ côi:

– Mái ấm Hy Vọng Nguyệt Biều, số 560 Bùi Thị Xuân, Thuỷ Biều, thành phố Huế.

– Mái ấm Tình Thương Lâm Bích, Đông Hà, Khu phố 10, Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

– Hơi Ấm Thừa Sai, cộng đoàn Hoà Yên, Cam Đức, tỉnh Khánh Hoà.

– Và một nhà nội trú miễn phí cho các em người dân tộc tại cộng đoàn Cam Lộ, Quảng Trị.

– Ngoài ra, Hội Dòng cũng dành một căn nhà tại cơ sở Nguyệt Biều để nuôi dưỡng và giúp đỡ cho các thiếu nữ lỡ lầm.

Với lời cầu xin tha thiết trong nguyện đường cho Giáo hội và các linh hồn, và với lòng yêu mến Chúa Giêsu, tha thiết phục vụ hạnh phúc cho các chi thể của Người, chị em phục vụ xã hội và Giáo Hội địa phương trong âm thầm, khiêm tốn như cánh tay nối dài của Đấng Chịu Đóng Đinh.

  1. Những biến cố đặc biệt của Hội dòng

            5.1. Ngày Hiệp Nhất năm Tu Viện Mến Thánh Giá Giáo Phận Huế.

– Năm 1962, phê chuẩn Hiến Chương.

– Ngày 07.06.1965, chị em chuyển từ lời hứa sang lời khấn trong Thánh Lễ khấn dòng tại Đà Lạt.

– Ngày 03.6.1967, Tổng Tu Nghị đầu tiên của Dòng mới canh tân và hiệp Nhất.

            5.2. Đổi tên Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế thành Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế.

Khi thực hiện cuộc canh tân hiệp nhất dòng tu theo giáo huấn của Giáo Hội, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Martinô Ngô Đình Thục đã đặt tên cho Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế. Đến năm 1990, cùng Bảy Hội Dòng Mến Thánh Giá Tổng Giáo Phận Sài Gòn, Hội Dòng đón nhận quyển Hiến Chương mới. Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế có chung một Đấng Sáng Lập, một linh đạo với các Hội Dòng Mến Thánh Giá, và một lịch sử gắn liền với đời sống Giáo Hội Việt Nam từ hơn 300 năm nay. Bởi vậy, sau khi đã học hỏi, suy nghĩ và trong tinh thần hòa đồng với các Hội Dòng về tên gọi Mến Thánh Giá, chị em đã đồng ý đổi tên “Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế” thành “Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế”.

            5.3. Phê chuẩn Hiến Chương

Sau 10 năm thử nghiệm (1990-2000). Ngày 14.09.2000, Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô, Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thế đã phê chuẩn Hiến Chương cho Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế.

Đức Cha viết: “Nay, chiếu theo Giáo Luật khoản 595, Tôi ra Nghị định phê chuẩn chính thức quyển Hiến Chương canh tân của Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế, đã được Hội Dòng này biểu quyết thông qua ngày 30.03.2000 theo văn bản cính thức do chị Tổng Phụ Trách Agata Võ Thị Trúc đệ trình và được lưu giữ tại văn khố Toà Tổng Giám Mục Huế”.

“Tôi tuyên bố: các quyển Hiến Chương cũ sẽ hết hiệu lực kể từ ngày quyển Hiến Chương canh tân do tôi phê chuẩn bằng nghị định nầy, và được Chị Tổng Phụ Trách ban hành”.

                     Làm tại Toà Tổng Giám Mục Huế, ngày 14.09.2000

Têphanô Nguyễn Như Thể

(Ký tên và đóng dấu)

            5.3.  Tách ra hai Hội Dòng Mến Thánh Giá mới

Nhờ ơn Chúa, từ Hội dòng Mến Thánh Giá Huế đã phát sinh ra hai Hội dòng mới cho hai Giáo Phận, đó là:

– Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết, năm 1983.

– Hội Dòng Mến Thánh Giá Bà Rịa, năm 2008.

 

III. TRỞ VỀ NGUỒN

            Năm 1970, cùng hiệp thông với 14 Dòng Mến Thánh Giá Miền Nam mừng kỷ niệm Tam Bách Chu Niên thanh lập Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam, vào trung tuần tháng 07.1971, Dòng Mến Thánh Giá Thừa Sai Huế đã tổ chức tam nhật kỷ niệm 300 năm của Dòng với một chương trình khá hoành tráng. Trong dịp này Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền cùng với một số linh mục dâng Thánh Lễ đồng tế tại Thợ Đúc, trên mảnh đất có Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc ngày xưa. Tiếp đến, Thánh Lễ đồng tế khác được cử hành tại nhà thờ Chánh Toà Phủ Cam, sau đó là văn nghệ, triển lãm và tiệc mừng.

Từ khi Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá được thành lập, chị em Mến Thánh Giá Huế cũng được đón nhận, học hỏi, tìm hiểu gia sản phong phú của Dòng Mến Thánh Giá qua các bút tích của Đức Cha Pierre Lambert qua việc tham dự thường xuyên các Khóa Thường Huấn Liên Hội Dòng Mến Thánh Giá. Và khi tìm về nguồn cội, về Đấng Sáng Lập, chị em tại Huế hân hoan đón nhận quyển Hiến Chương mới, như Bảy Hội Dòng Mến Thánh Giá Tổng Giáo Phận Sài Gòn (1990) để thử nghiệm và thích nghi sau đó.

IV. NHÂN VẬT TIÊU BIỂU

Chị Maria Madalena Nguyễn Thị Hậu 1814-1841[36]

LỜI KẾT

“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn Tình Thương” (Tv 117)

Để khép lại trang sử Hồng ân này, Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Thiên Chúa, Mẹ La Vang, và các Thánh Tử Đạo Việt Nam tuôn đổ muôn phúc lành cho quý ân nhân còn sống cũng như đã về Nhà Cha. Trong tình yêu và dòng chảy linh đạo Mến Thánh Giá đã được các thế hệ chị em sống, vun trồng trên mảnh đất quê hương trong lòng Mẹ Giáo phận Huế thân thương có mồ hôi và cả máu đào…Chúng con xin dâng trao và xin hiệp nhất trong Tình Yêu Chúa Giêsu-Kitô-Chịu-Đóng-Đinh và Hằng Sống muôn đời Alleluia.

[1] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, 1658- 1823, Documents Historiques, II, OP.CIT,

  1. 39.

[2] X. nt., tr.41.

[3] X. nt., tr.89.

[4] X. nt., tr.257.

[5] X. ĐINH THỰC, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, sđd., tr 66.

[6] Hai dòng nữ ở đây là Phước Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc và một Phước Viện khác ở Di Loan do Đức Cha Labartette lập năm 1780 (x. ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, tr.148 (Thư Đức Cha Labartette gởi cha Boiret, ngày 22.3.1787). ĐINH THỰC, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, sđd., tr 75.

[7] NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa phận Huế, sđd, tr.17.

[8] X. Niên Giám Bộ Truyền Giáo, số XI “LXIII” 208; x. ĐINH THỰC, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, sđd, tr. 95.

[9] x. Tư liệu tại Phòng Truyền Thống của Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế.

[10] NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch sử các Phước viện chị em Mến Thánh Giá Địa phận Huế, tr. 17.

[11] X. ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mision du Tonkin 1658-1717: Documents historisques, I, op.cit, pp.147.149.

[12] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, sđd, tr.147; ĐINH THỰC, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, op.cit, pp. 68-69.

[13] X. Dòng Mến Thánh Giá Huế, trong Kỷ yếu 150 năm Giáo Phận Huế, Huế, 2000, tr 1-2.

[14] NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa phận Huế, sđd, tr.19.

[15] Cha Labartette được Tòa Thánh chọn làm Giám Mục phó Đức Cha Bá Đa Lộc năm 1784, nhưng tới năm 1793 Đức Cha mới được tấn phong.

[16] NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa phận Huế, sđd, tr. 19-20

[17] Nt.

[18] TRẦN QUANG CHU, “Tu Viện Phủ Cam” trong Hành Hương Giáo phận, II, tr. 351-352.

[19] X. Tạp chí Truyền Bá Đức Tin, cuốn VI, tr.433.

[20] X. L. GROCHET, Vie du vénérable F. Jaccard, 1875, tr.107-117.

[21] X.TRẦN QUANG CHU, “Tu Viện Dương Sơn” trong Hành Hương Giáo phận, II, tr. 30.

[22] NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa Phận Huế, sđd., tr. 27.

[23] X. ĐÀO QUANG TOẢN, Nữ Tu Nguyễn Thị Hậu, Toulouse, 2000, tr.3-4.

[24] X. nt., tr. 18.

[25] Niên Giám Bộ Truyền Giáo, XL (LXVI), 556; ĐINH THỰC, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, sđd, tr. 96.

[26] AMEP, vol. 749, p. 995, no 20.

[27] Cha Chính Joseph Sohier Bình (1818-1876) coi sóc họ Di Loan, được tấn phong làm Giám Mục Phụ Tá cho Đức Cha François Phan tại Đàng Trong ngày 17.08.1851(x. Sacré Mgr. Sohier: Bulletin M.E., 1937, tr. 162).

[28] X. Tạp chí Truyền Bá Đức Tin, cuốn 30 và 32.

[29] X. JABOUILLE, “Một Trang Huyết Lệ,” trong Lịch Sử Tỉnh Quảng Trị Tháng Chín Tây Năm 1885, Nhà in Trung Hòa, Hà Nội, trung Hòa, 1941.

[30] X. JABOUILLE, “Một Trang Huyết Lệ,” sđd, tr. 28-31.

[31] X. NGUYỄN VĂN NGỌC, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa Phận Huế, sđd.,

tr.46-49.

[32] X. Compte Rendu de Hué en 1886, pp.103-105; R. HÉRY, MAP de Hué 1854- 1905.

[33] M.L CADIÈRE, Mission Apostolique dans Revue: Annales des Missions Étrangères, I, 1911, p. 24. (Một số tài liệu của các vị Thừa sai Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Paris, hữu ích cho việc tìm hiểu lịch sử Giáo phận Huế, tập I, tr. 24).

[34] ALEXANDRE CHABANON (1873-1936), Rapport annuel des Évêques, Huế 1932, p.4/5

[35] F.A LEMASLE, Rapport annuel des Évêques, Huế, 1937, pp.2/7.

[36] X. Phần I, chương V “Các Nữ Tu Mến Thánh Giá – Chứng Nhân Đức Tin”.