« Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ; kẻ khác nữa thì được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người. (1 Cr 12, 4-11).
Mỗi người chúng ta sống trên đời này đều có một « ơn gọi » và « sứ mạng » của mình. Khi được sinh ra, ta mang ơn gọi làm người ; khi được rửa tội, ta trở nên con Chúa và được mời gọi trở nên người kitô hữu tốt trong Giáo Hội với ba sứ vụ : « ngôn sứ, tư tế và đế vương »; khi lập gia đình, đó là ơn gọi sống đời tình yêu hôn nhân ; và khi ta được kêu gọi dấn thân vì Nước Trời trong đời sống tu trì, đó là ơn gọi thánh hiến … Và còn biết bao ơn gọi khác nữa trong cuộc sống muôn màu này. Tất cả đều hướng tới lời mời gọi của Chúa Giêsu là « trở nên hoàn thiện, nên thánh ». Trong giới hạn của bài này, chúng ta chỉ chia sẻ cho nhau « ơn gọi thánh hiến », cũng thường được gọi là « đời tu ». Trích đoạn Lời Chúa trên đây trong 1Cr 12,4-11, cho chúng ta thấy mỗi người đều được Chúa ban cho « đặc sủng » khác nhau để dấn thân và phục vụ. Để hiểu hơn về « đời tu », chúng ta sẽ đề cập trước tiên « ơn gọi thánh hiến là gì ?», làm sao biết mình có ơn kêu gọi ? Tiếp đến chúng ta sẽ nói về « đặc sủng », đặc sủng giúp gì cho ơn gọi của mình ? Và sau cùng, chúng ta cùng tìm hiểu « đặc sủng » Mến Thánh Giá, Hội Dòng đầu tiên được khai sinh trên mảnh đất Việt Nam (1670) mà năm nay là « Năm thánh » mừng kỷ niệm 350 năm thành lập.
- Ơn gọi thánh hiến
Ơn gọi là một « ân sủng » mà Thiên Chúa ban cho những ai Người muốn. Đó là lời mời gọi dấn thân của Thiên Chúa trong lòng ta để sống ba lời khuyên Phúc Âm : Khiết Tịnh, Nghèo Khó và Vâng Phục, là sự đáp trả của chúng ta đối với lời mời gọi ấy và để sai đi cho một sứ vụ mà Thiên Chúa muốn. Vậy một ơn gọi tu trì thực thụ trong Giáo Hội cần hội đủ ba yếu tố : 1°/ Lời mời gọi từ Thiên Chúa ; 2°/ Sự đáp trả tự nguyện của đương sự ; 3°/ Sự xác nhận của Giáo Hội qua các vị có thẩm quyền.
Tôi có ơn gọi hay không ? Yếu tố thứ ba trên giúp cho chúng ta khẳng định lại chắc chắn ơn gọi của mình. Tôi ước muốn sống ơn gọi thánh hiến, tôi muốn dấn thân trong dòng tu, tuy nhiên, tôi không có đủ các yếu tố hoặc một lý do nào đó để được xác nhận và sai đi cho sứ vụ mà Giáo Hội cần đến, thì chắn chắn có một ơn gọi khác, một nơi khác, thời điểm khác cho tôi.
Nguồn gốc Thánh Kinh : trong Cựu Ước, Thiên Chúa gọi một ai đó bằng chính tên của họ, điển hình là Sa-mu-el (1Sm 3,1-14). Sa-mu-el nghe tiếng Chúa gọi tên mình trong khi ngủ, nhưng không phân định được tiếng gọi từ đâu, tưởng là thầy Ê-li gọi, cho đến lần thứ ba, được thầy Ê-li cho biết là Thiên Chúa gọi thì Sa-mu-el sẵn sàng lắng nghe và nhận lấy sứ vụ từ Thiên Chúa. Ê-li đại diện cho vai trò của Hội Thánh để xác nhận ơn gọi của Sa-mu-el.
Tân Ước lại cho chúng ta thấy muôn màu muôn vẻ của ơn gọi. Đặc biệt, Chúa gọi những ai Người muốn (Mc 3,13). Chúa gọi các Tông Đồ là những người bình thường, yếu đuối, đôi khi xấu tính, cả những người thu thuế được xem là tội lỗi… Vì tôn trọng tự do của mỗi người, Chúa Giê-su cũng từng bị từ chối khi mời gọi người thanh niên giàu có bỏ mọi sự mà theo Người (Mt 19,21-22). Trong thời đại hôm nay, lời mời gọi của Chúa vẫn còn đó, nhưng chúng ta có can đảm đáp trả hay không ? Hay chúng ta vẫn đi theo Chúa, nhưng lại vẫn muốn làm theo ý riêng mình. Chính Chúa Giê-su cũng đã nói trong « dụ ngôn tiệc cưới » : « vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít » (Mt 22,14). Tuy nhiên, có lúc Chúa cũng « cưỡng bức » một ai đó vì sứ vụ đặc biệt của Người, đó là trường hợp của thánh Phao-lô (Cv 9,1-19). Phao-lô trên con đường hăng say đi bắt bớ các môn đệ Chúa Giê-su, « một luồng ánh sáng làm Ngài bị ngã xuống » và bị mù mắt, Phao-lô đã nghe tiếng Người : « tại sao ngươi bắt bớ Ta ? ». Đấng Phục Sinh đã nắm bắt Phao-lô bằng cách mà Ngài không thể cưỡng lại được. Và sau đó, Kha-na-ni-a và các Tông Đồ chứng giám cho ơn gọi đặc biệt của Phao-lô. Một lần nữa chúng ta thấy vai trò các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội.
Trong các dòng tu hay tại chủng viện cũng vậy, trải qua một thời gian học hỏi, huấn luyện và tập tu, ứng sinh sẽ khám phá ra ơn gọi của mình dưới sự hướng dẫn của những người hữu trách. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi có những người rời bỏ đời tu, hay chuyển dòng tu này sang dòng tu khác, có thể chính bản thân họ hay người có trách nhiệm nhận ra họ không phù hợp với đoàn sủng hay đặc sủng mà họ đang theo. Ơn gọi là cả một hành trình tìm kiếm Thánh ý Chúa, và mỗi giai đoạn Chúa dẫn dắt ta đi trên những con đường khác nhau của cuộc đời mình để sống đặc sủng Chúa ban và để nên thánh. Chúng ta cũng cần phải hiểu rằng : đời tu không phải là mục đích của chúng ta, đó là phương tiện. Mục đích của chúng ta là « nên thánh ».
- Đặc sủng
« Đặc sủng – charisme » xuất phát từ tiếng Hy-lạp « χάρισμα » – món quà, gốc từ của nó là « χάρισ » có nghĩa là : quà tặng, ân huệ, ân sủng có nguồn gốc Thần Linh. Khi Chúa muốn chọn ai, Người sẽ ban cho họ một đặc sủng, riêng biệt và nhưng không, để thi hành một sứ vụ. Lời Chúa trong 1Cr 12,4-11 trên đây giúp chúng ta hiểu rõ đặc sủng của mỗi người. Thời đại hôm nay con người dễ bị pha trộn giữa cái thật – giả, tiên tri thật, tiên tri giả, ngay cả trong các phong trào của Giáo Hội hay các hoạt động của dòng tu. Làm thế nào để chúng ta tránh được « cái giả » và tiến gần với « cái thật », và không dẫm chân lên nhau trong khi thi hành sứ vụ ? Đặc sủng cũng giúp cho chúng ta điều đó, giúp ta phân biệt sự khác nhau của các dòng tu trong Giáo Hội. Chính đặc sủng tạo nên căn tính của mỗi Hội Dòng. Thử hỏi nếu các tu sĩ trong Dòng Kín nói rằng : chúng ta phải ra đi sống theo Tin Mừng, vì Chúa dạy : « Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo » (Mc 16,15) ; hay chúng ta phải sống lời mời gọi của Đức Thánh Cha « hãy ra đi đến với người nghèo »…. Chúng ta cùng ngẫm nghĩ xem !
Vậy, đọc lại Lời Chúa trên đây cũng giúp cho chúng ta phần nào tìm lại đúng vị trí của mình trong Giáo Hội, trong giáo xứ, trong cộng đoàn và cả trong gia đình ; cũng tránh áp dụng Lời Chúa không đúng chỗ, không đúng người và không đúng thời điểm để biện minh cho việc làm của riêng mình. Và nếu nhận được ơn Chúa ban, chúng ta cũng không chôn vùi ơn thánh mà cần dùng ơn ấy để phục vụ Chúa và tha nhân.
- Đặc sủng của Dòng Mến Thánh Giá
Hiến chương Dòng Mến Thánh Giá điều 2 dạy rằng : « người nữ tu Mến Thánh Giá thông dự vào linh đạo và đặc sủng của Đấng sáng lập bằng cách : 1°/ hướng trọn lòng trí và cuộc sống về Đức Giêsu Ki-tô Chịu-Đóng-Đinh là đối tượng duy nhất ; 2°/ sống sứ vụ tông đồ thừa sai, để loan báo Phúc Âm cho các dân tộc và góp phần xây dựng Giáo Hội địa phương ». Đặc sủng này cũng được thể hiện trong « mục đích » của Hội Dòng đó là : « đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Đức Giêsu Ki-tô bằng việc chuyên chú suy niệm, tưởng nhớ và noi theo cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người » (HC 3). Như vậy, đặc sủng mà Hội dòng Mến Thánh Giá thừa hưởng từ di sản tinh thần của Đấng sáng lập, Đức cha Lambert de La Motte, mang hai khía cạnh : chiêm niệm và hoạt động tông đồ. Hai khía cạnh này thiết yếu cho một ơn gọi mang sứ mạng truyền giáo, đặc biệt ơn gọi Mến Thánh Giá. Chính Chúa Giêsu cũng lập Nhóm Mười Hai với mục đích : « để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng » (Mc 3,14). Điểm đặc biệt của đặc sủng Mến Thánh Giá đó là tinh thần « hy sinh » và « khổ chế », được đưa vào trong đời sống cầu nguyện cũng như tất cả các hoạt động tông đồ của người nữ tu Mến Thánh Giá.
Trải qua 350 năm, lớn lên trong lòng Giáo Hội Việt Nam và cùng đi qua bao thăng trầm của lịch sử Giáo Hội địa phương, Dòng Mến Thánh Giá vẫn duy trì, gìn giữ và thích nghi gia sản thiêng liêng của Đức cha Lambert de La Motte. Nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi sống đặc sủng đặc biệt của mình trong tất cả các sứ vụ được sai đi và trong mọi lĩnh vực : văn hóa, xã hội, y tế, luân lý và đức tin. Vì thế chị em Mến Thánh Giá sống gần gũi với mọi người và đi vào từng ngỏ ngách của cuộc sống đời thường vì yêu mến Chúa Giêsu Ki-tô Chịu-Đóng-Đinh, sẵn lòng đón nhận thập giá « để hoàn tất nơi thân xác những gì còn thiếu trong các nỗi gian truân Đức Ki-tô phải chịu cho Thân Mình Người là Hội Thánh » (Cl 1, 24). Trong tất cả mọi sự, dù chiêm niệm hay hoạt động tông đồ, mục đích cuối cùng là để yêu mến Chúa Giêsu Ki-tô Chịu Đóng Đinh và làm cho nhiều người biết Chúa hơn : « ở với Chúa và để Người sai đi ».
Để kết thúc, xin mượn lời của thánh Gioan Phao-lô II trong Tông Huấn đời sống Thánh hiến « Vita consecrata » số 109 : « Các con hãy sống trọn cuộc hiến dâng cho Thiên Chúa, để cho thế giới này đừng mất đi một tia sáng chiếu ngời vẻ đẹp của Thiên Chúa trên đường đời của nhân loại. Những Ki-tô hữu, chìm ngập trong những bận rộn và lo âu của thế gian này nhưng vẫn được mời gọi nên thánh, đang cần thấy được nơi các con những trái tim thanh khiết đang ‘nhìn thấy’ Thiên Chúa trong đức tin, những con người ngoan ngoãn để Thánh Thần hướng dẫn, vui vẻ tiến bước, trung thành với đặc sủng của ơn gọi và sứ mạng của mình … Hỡi những người tận hiến, dù già hay trẻ, hãy sống trung thành với điều đã cam kết với Thiên Chúa, bằng cách làm gương sáng cho nhau, nâng đỡ nhau. Dù đôi khi các con gặp nhiều khó khăn hay dù tại vài nơi đời thánh hiến không còn được kính trọng đi nữa, các con có phận sự mời gọi những người thời đại này hãy ngước nhìn lên cao, đừng để mình bị ngụp lặn trong công chuyện hàng ngày, nhưng hãy để cho Thiên Chúa và Tin Mừng của Con Thiên Chúa thu hút. Đừng bao giờ quên rằng, các con là những người một cách đặc biệt có thể và phải nói rằng không những các con thuộc về Đức Ki-tô, mà các con ‘đã trở nên Đức Ki-tô’ nữa ».
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau, để gìn giữ và bước đi trong « đoàn sủng Mến Thánh Giá » với những giá trị siêu nhiêu của sự « hy sinh và từ bỏ » đã ít nhiều bị luồng tư tưởng tâm lý học xâm chiếm, bóp méo và tục hóa trong một thế giới yêu chủ nghĩa cá nhân và sự tự do này.
Nt. Marie Thụy Thiên-Nga
Hội dòng Mến Thánh Giá Huế
Trích từ Bản tin Hiệp thông tháng 6.2020