Phân định thiêng liêng không thể tách rời khỏi một khả năng rất con người: cảm nhận. Chúng ta thường nghĩ phân định là chuyện của “ơn gọi”, “ơn Chúa”, hay “ánh sáng từ trên cao”, nhưng thực ra nó bắt đầu từ việc lắng nghe và tin vào cảm giác thật sự đang xảy ra trong lòng mình. Và điều đó đòi hỏi phải rèn luyện sự nhạy cảm, từ những điều dễ nhất đến những điều sâu hơn.
Hãy bắt đầu từ đời sống thường ngày. Khi bạn nếm một bát canh, bạn có biết nó mặn hay nhạt không? Khi bạn nhìn một bức tranh, bạn có cảm thấy nó đẹp hay rối rắm? Khi bạn nghe một bản nhạc, bạn có cảm nhận được sự êm dịu hay chát chúa? Đó chính là khả năng phân định bằng giác quan – một điều tưởng chừng như rất tự nhiên, nhưng thật ra là kết quả của kinh nghiệm và sự chú tâm.
Tuy nhiên, có nhiều người không còn tin vào cảm nhận của mình nữa. Họ hỏi người khác: “Canh này mặn không?” dù họ đã nếm. Họ hỏi: “Bức tranh này đẹp không?” dù mắt họ vẫn nhìn. Họ đã đánh mất sự tự tin vào cảm giác thật của chính mình. Và nếu ngay cả với giác quan thân xác, họ còn không dám tin, thì làm sao có thể nhận ra và tin vào những chuyển động vi tế trong tâm hồn?
Phân định thiêng liêng đòi hỏi một sự nhạy bén nội tâm, như khi bạn cảm thấy: “Lúc đó tôi nói vậy nhưng trong lòng thấy bất an.” Hoặc: “Dù chuyện đó hợp lý, nhưng tôi thấy có gì đó không thật.” Những cảm giác ấy không phải là tưởng tượng, mà chính là tiếng nói âm thầm của Thần Khí, len lỏi qua từng cung bậc cảm xúc, trực giác, ý nghĩ.
Vì thế, phải rèn luyện sự nhạy cảm và tự tin, bắt đầu từ những điều đơn giản nhất. Hãy lắng nghe mình khi ăn, khi nhìn, khi nghe, khi tiếp xúc. Rồi mở rộng ra: Hãy chú ý đến cảm giác khi nói chuyện với người này, khi đọc một đoạn Tin Mừng, khi cầu nguyện bằng một bài hát. Sau đó, ta mới bắt đầu cảm được những chuyển động tinh tế hơn: một ánh sáng lặng lẽ, một lời gợi mở dịu dàng, hay một cơn bồn chồn không rõ lý do. Tin tưởng vào những cảm nhận ấy không phải là tin vào cảm xúc nhất thời, mà là tin vào kinh nghiệm sống, tin vào con người thật của mình đang lắng nghe Thiên Chúa.
Một trong những lý do khiến người Việt – đặc biệt là giới trẻ – khó rèn luyện được sự tự tin và nhạy cảm nội tâm, là vì văn hóa và môi trường sống không khuyến khích điều đó. Trong nhiều gia đình, học đường, và cộng đồng, cảm nhận cá nhân thường không được xem trọng, đôi khi còn bị coi là “trái phép”, “nghịch lý” hay “tự cao”.
Trước hết, chúng ta đang sống trong một nền văn hóa trọng người lớn tuổi. Người lớn là người “có lý”, người “đã sống qua”, và vì vậy lời của người lớn thường mang tính mệnh lệnh. Trẻ em và người trẻ lớn lên trong môi trường đó rất ít được hỏi “con nghĩ gì?” hay “con cảm thấy sao?” Những cảm nhận thật của các em không được lắng nghe, và lâu ngày chính các em cũng không còn để ý đến cảm nhận của mình. Tâm hồn dần dần chai lì, không phải vì chúng cứng, mà vì chưa bao giờ được phép lên tiếng.
Thêm vào đó, văn hóa Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng thường đề cao tập thể, sự tuân phục, và khuôn mẫu. Ở trường học, thay vì được hướng dẫn để cảm và viết văn theo trải nghiệm của mình, học sinh lại được học “văn mẫu” – một dạng “cảm nhận của người khác đã được chuẩn hóa”. Các em không được rèn luyện khả năng diễn tả cảm xúc, mà chỉ học cách lặp lại những gì được xem là đúng. Cảm nhận riêng trở thành thứ nguy hiểm, không nên nói ra.
Ở nhà, con cái được dạy: “Phải vâng lời”, “không cãi lại người lớn”, “không nói linh tinh”. Trong môi trường như vậy, người trẻ không có không gian để lắng nghe chính mình, huống chi là phân định điều gì là thật, điều gì là giả, điều gì là của Chúa, điều gì là tiếng ồn.
Và hệ quả là: khi lớn lên, nhiều người không còn biết cảm nhận, hoặc không tin vào cảm nhận của chính mình. Họ luôn cần người khác xác nhận, hướng dẫn, ra quyết định thay. Từ đó, đời sống nội tâm trở nên nghèo nàn, và ơn phân định – vốn cần sự nhạy bén và tự tin – bị thui chột.
Lm. Giuse Vũ Uyên Thi, S.J.
Nguồn: dongten.net