(Cv 5,12-16; Kh 1:9-11a.12-13.17-19; Ga 20:19-31)
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội cử hành lễ Lòng Chúa Thương Xót. Vì vậy, chúng ta đến với Chúa hôm nay không phải để “xem” lễ, xem những gì xảy ra trong thánh lễ và trở về không có thay đổi nào trong cuộc sống. Chúng ta đến với Chúa trong thánh lễ này để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa và đồng thời được mời gọi để diễn tả lòng thương xót của Chúa cho người khác, nhất là những người trong gia đình, trong khu xóm, trong giáo xứ của chúng ta. Đừng để lòng thương xót của Chúa trở nên vô hiệu trong cuộc đời của chúng ta. Muốn được như thế, chúng ta hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta.
Thường chúng ta đến với Chúa với tâm tình thế nào? Nhiều người trong chúng ta xin lễ tạ ơn và tỏ lòng biết ơn vì chúng ta được Chúa ban cho điều chúng ta xin. Thánh Vịnh đáp ca của Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay chỉ ra cho chúng ta biết lý do để tạ ơn Chúa, đó là: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117:1). Biết tạ ơn Chúa trong những khi “thịnh vượng” thì ai cũng có thể làm được, nhưng biết tạ ơn Chúa ngay cả khi gặp “gian nan” thì chỉ có những người cảm nghiệm được lòng nhân từ và tình thương vô biên của Chúa mới có thể làm được. Đây chính là điều ông Gióp đã làm: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa. Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (Gio 1:21-22). Những người sống với tâm tình của ông Gióp sẽ hiểu được lòng nhân từ và tình thương của Chúa trong mọi giây phút cuộc đời. Đây chính là đề tài mà các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm.
Trong bài đọc 1, chúng ta thấy Thiên Chúa tỏ tình thương và lòng nhân từ của Ngài cho những người đau ốm “qua” Thánh Phêrô và các Tông Đồ: “Hồi ấy, nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ” (Cv 5:12). Nói cách khác, chính các Tông Đồ đã để cho Chúa lặp lại sứ vụ chữa lành của Ngài qua các ông. Các Tông Đồ đã lặp lại những gì Chúa Giêsu đã làm, hay nói đúng hơn, từ lời nói và việc làm của các ngài trở nên giống Chúa Giêsu “như khuôn.” Đây chính là hoa trái của đời sống mới trong Đức Kitô Phục Sinh, đó là chúng ta sống đời sống biến đổi từ lời ăn tiếng nói, từ cử chỉ đến hành động đều nên giống Chúa Giêsu. Chính điều này đã làm cho “có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.” Ở đây chúng ta nghe những ngôn từ không mang tính cách loại trừ như chúng ta nghe trong các Tin Mừng kể về các lần Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều: “số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14:21). Điều này nói lên ơn cứu độ phổ quát mà Chúa Giêsu mang đến cho mọi người. Thiên Chúa tỏ lòng nhân từ cho hết mọi người chứ không chỉ cho một số người. Tuy nhiên, bây giờ Ngài làm điều đó qua mỗi người trong chúng ta. Một cách cụ thể, Ngài muốn mượn môi miệng chúng ta để nói lời hay tiếng tốt và những lời an ủi với người khác; Ngài muốn mượn đôi tay của chúng ta để nâng đỡ những người đau yếu bệnh tật và nâng dậy những người vấp ngã; Ngài muốn mượn đôi chân của chúng ta để đồng hành với những người cô đơn và bị loại trừ; Ngài muốn mượn tâm trí chúng ta để nghĩ tốt nghĩ hay về người khác; Ngài muốn mượn con tim của chúng ta để yêu thương những người cần được yêu thương và tha thứ cho những người mong được tha thứ. Hãy để cho Chúa Giêsu tỏ lòng nhân từ và tình thương qua chúng ta, bắt đầu từ những người trong gia đình [cộng đoàn], trong giáo xứ, trong giáo phận và trong thế giới.
Bài đọc 2 trình bày cho chúng ta việc Thiên Chúa tỏ tình thương, lòng nhân từ với Gioan và chọn thánh nhân để viết lại “những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này” (Kh 1:19). Theo các học giả Kinh Thánh, đây là “bản báo cáo” về một kinh nghiệm mà qua đó Thiên Chúa mạc khải chính mình và ý muốn cho thánh nhân. Chúng ta nhận ra trong kinh nghiệm này ba yếu tố căn bản sau: (1) thinh lặng và lắng nghe tiếng Chúa; (2) kính sợ; (3) vâng phục thi hành những gì Thiên Chúa muốn. Điều đáng để chúng ta lưu ý ở đây là lần xuất thần này xảy ra “vào ngày của Chúa” (Kh 1:10). “Ngày của Chúa” ám chỉ đến ngày “thứ nhất trong tuần” [hay còn gọi là ngày Chúa Nhật] được tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay? Điều này giúp chúng ta xác tín rằng: mỗi lần chúng ta đến với Chúa trong ngày Chúa Nhật [trong thánh lễ], chúng ta cũng được “xuất thần,” được Thiên Chúa mạc khải về chính Ngài và về điều Ngài muốn cho chúng ta. Hay nói theo ngôn từ của đề tài hôm nay là mỗi lần chúng ta đến tham dự thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta phải cảm nghiệm được tình thương và lòng nhân từ mà Thiên Chúa tỏ cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, thách đố cho chúng ta sau mỗi lần đến với Chúa là chúng ta cũng phải diễn tả tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho mình qua đời sống yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta lại nghe tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu cách cụ thể cho Tôma. Bài Tin Mừng hôm nay được viết theo cấu trúc “bánh mì kẹp,” đó là mở đầu và kết thúc giống nhau. Cách cụ thể, cấu trúc của bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần: phần 1 (Ga 20:19-23) nói đến việc Chúa Giêsu hiện ra cho “các môn đệ” [thiếu Tôma] và các ông đã vui mừng vì được thấy Ngài; trong phần 2 (Ga 20:24-29), chúng ta tìm thấy cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Tôma; phần 3 (Ga 20:30-31) trình bày việc Chúa Giêsu làm những dấu lạ khác cho “các môn đệ” [có Tôma] để các ông tin. Chúng ta cùng nhau phân tích từng phần để rút ra những sứ điệp Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay.
Chi tiết đầu tiên làm chúng ta lưu ý là câu mở đầu của Tin Mừng: “Vào ngày thứ nhất trong tuần nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái” (Ga 20:19). Chi tiết này dường như cũng rất quen thuộc với mỗi người chúng ta vào các ngày Chúa Nhật. Chúng ta cũng đã nhiều lần “đóng kín cửa tâm hồn” mỗi ngày Chúa nhật vì chúng ta sợ nhiều thứ: sợ mất giờ khi đi tham dự thánh lễ; sợ phạm tội nếu không đi tham dự thánh lễ; sợ bị bố mẹ la mắng; sợ mất công ăn việc làm và nhiều nỗi sợ khác. Tuy nhiên, điều an ủi chúng ta ở đây là dù cửa tâm hồn của chúng ta đóng kín, Chúa Giêsu vẫn muốn bước vào và mang lại cho chúng ta sự bình an giữa những lo sợ. Trong phần này, chúng ta lưu ý đến món quà đầu tiên của phục sinh mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ là “bình an.” Bình an không phải là không có “chiến tranh” trong gia đình, trong giáo xứ, trong giáo phận, trong Giáo Hội [xã hội]. Bình an là “kết quả của việc chữa lành những vết thương mà chiến tranh” đã gây ra: “Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20:20). Thật vậy, sau khi chúc các môn đệ được bình an, Chúa Giêsu liền cho các ông xem các vết thương của Ngài. Sự kiện này nhắc nhớ chúng ta về lời giảng dạy của Thánh Phêrô, đó là nhờ vết thương của Ngài mà chúng ta được chữa lành (x. 1 Pt 2:24). Điều này mời gọi chúng ta biến những vết thương mà người khác tạo ra cho chúng ta thành những “dấu chứng tình yêu,” thành “phương thuốc chữa lành.” Chúng ta chỉ có thể làm được điều này khi mọi người biết sống tha thứ cho nhau (Ga 20:22-23). “Tha thứ” là món quà không thể tách rời khỏi món quà bình an. Đúng hơn, tha thứ là điều kiện cần để có được bình an. Sau “chiến tranh” giữa vợ chồng, giữa con cái trong gia đình, giữa những người trong khu xóm hoặc giáo xứ, nếu không có sự tha thứ cho nhau, sẽ không bao giờ có bình an. Nếu muốn được một cuộc sống bình an, đừng làm người khác bị tổn thương và nếu có bị người khác làm tổn thương, hãy tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Trong lối viết “bánh mì kẹp,” phần quan trọng chính là phần ở giữa. Phần này trong bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta câu chuyện của Tôma, câu chuyện mà làm cho ông “mang tiếng” là người “cứng lòng tin.” Có thật Tôma cứng lòng tin không? Nếu chúng ta phân tích câu chuyện, chúng ta thấy điều Tôma làm là điều rất bình thường. Ngài không muốn nhìn thấy gì khác ngoài những vết thương mà Chúa Giêsu đã cho các môn đệ khác nhìn thấy. Tuy nhiên, Tôma không chỉ muốn được nhìn thấy “chung chung” như các môn đệ khác, mà còn hơn thế nữa. Tôma muốn được “cảm nghiệm cách cá vị”: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20:25). Ông muốn việc tin của ông phải là một hành vi thật cá vị, là của ông chứ không phải của người khác. Đây là hành trình rất quen thuộc cho tất cả những người gặp gỡ Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan. Nói cách cụ thể, phần giữa trình bày cho chúng ta hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Như Tôma, chúng ta cũng đi từ “không tin” đến “tin.” Chúng ta cũng đi tìm sự hiển nhiên và chắc chắn cho niềm tin của mình qua việc muốn đụng chạm đến Thiên Chúa [Chúa Giêsu]. Trong hành trình này, chúng ta cần “nội tâm hoá” hay “cá vị hoá” những điều chúng ta tin. Có thể nói, nhiều khi chúng ta (người công giáo) vẫn biện minh với lập luận “theo đạo ông bà,” có nghĩa là “đây là đạo của ông bà cha mẹ tôi chứ không phải của tôi.” Điều này xảy ra là vì chúng ta chưa biết học nơi Tôma, đó là cầu xin cho được đụng chạm đến Chúa cách cá vị. Theo các học giả Kinh Thánh, hình ảnh của Tôma chính là hình ảnh của chúng ta ngày hôm nay, những người không còn được nhìn thấy Chúa Giêsu như các môn đệ. Chúng ta được Chúa Giêsu khẳng định là những người có phúc vì chúng ta đã tin ngay cả khi chúng ta không nhìn thấy Ngài (x. Ga 29). Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta không thể đụng chạm đến Chúa Giêsu. Ngài vẫn mời gọi chúng ta đụng chạm đến Ngài mỗi ngày trong Bí Tích Thánh Thể, trong những người bị “tổn thương” mà cần đến bàn tay chữa lành của chúng ta đụng chạm đến. Đức tin của Tôma đã biến thành hành vi tôn thờ khi ông kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức tin phải được diễn tả qua hành vi thờ phượng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17).
Phần 3 trình bày cách ngắn gọn những dấu lạ mà Chúa Giêsu làm trước mặt các môn đệ [có Tôma] để các ông tin vào Ngài. Đồng thời, phần này cũng trình bày cho chúng ta mục đích của Tin Mừng Thánh Gioan, đó là viết lại những “dấu lạ” Chúa Giêsu đã làm nhằm giúp chúng ta tin rằng “Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20:31). Ở đây Thánh Gioan khẳng định cho chúng ta rằng: đức tin của chúng ta phải đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, Đấng là sự sống. Nếu đức tin không đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, hay nói đúng hơn là không làm cho chúng ta thao thức được gặp gỡ Ngài, thì chúng ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng “không tin,” vẫn chưa ra khỏi tình trạng “đi đạo theo thời.”
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB