Suy Niệm Lời Chúa – Chúa Nhật III Mùa Chay – Hãy Sám Hối Và Sinh Hoa Trái Thánh Thiện

(Xh 3:1-8a.13-15; 1 Cr 10:1-6.10-12; Lc 13:1-9)

Lời Chúa trong Chúa Nhật tuần trước mời gọi chúng ta đến sự biến đổi qua đời sống cầu nguyện [Chúa Giêsu biến hình trong khi Ngài đang cầu nguyện]. Và Lời Chúa trong Chúa Nhật III Mùa Chay trình bày cho chúng ta hậu quả trong đời sống vĩnh cửu nếu chúng ta không thay đổi, không sám hối trước mạc khải của Thiên Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay nói về việc Thiên Chúa kêu gọi Môsê đảm nhận sứ mệnh thay mặt Ngài dẫn dắt dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Trong đoạn trích từ sách Xuất Hành hôm nay, chúng ta tìm thấy mạc khải nền tảng về Thiên Chúa cho dân Israel và đỉnh cao của mạc khải này là tên của Thiên Chúa. Mạc khải tên cũng chính là mạc khải chính mình, vì tên diễn tả “nhân vị.” Khi một người cho người khác biết tên của mình là người đó muốn thiết lập quan hệ với người kia qua việc cho người đó biết mình là ai qua tên gọi. Thật vậy, tên để gọi, để nói lên “căn tính,” để thiết lập mối tương quan. Khi Thiên Chúa mạc khải tên của mình cho Môsê và dân Israel, Ngài muốn mạc khải cho họ biết Ngài là ai và Ngài muốn thiết lập một mối liên hệ giao ước với họ. Và tên của Thiên Chúa là: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3:14). Tên này nói đến sự hiện diện vĩnh hằng, là Đấng luôn hiện hữu, Đấng luôn ở trong “hiện tại.” Sự hiện hữu [hiện diện] của Ngài không phải là một sự hiện hữu của quá khứ hay của tương lai, nhưng luôn trong hiện tại. Không có khi nào Ngài không hiện hữu và gần gũi với chúng ta. Điều này khẳng định cho chúng ta chân lý này: Ngài luôn ở cùng chúng ta trong mọi giây phút. Đây chính là ý nghĩa của tên của Chúa Giêsu: Ngài sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Is 7:14; Mt 1:23). Chân lý này cũng là điều khuyến cáo chúng ta phải sống ngay lành trước nhan Thiên Chúa, vì mọi sự đều bày tỏ trước mắt Ngài: chúng ta có thể giấu người khác, ngay cả với những người thân nhất của chúng ta, nhưng chúng ta không thể giấu Thiên Chúa bất cứ điều gì.

Điểm thứ hai trong bài đọc 1 đáng để chúng ta suy gẫm là việc Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môsê trong khi ông đang làm công việc thường ngày của ông: chăn chiên. Chắc chắn một điều là ông đã nhìn thấy bụi gai nhiều lần vì bụi gai là vật quen thuộc mà ông nhìn thấy mỗi ngày. Nhưng hôm nay cái quen thuộc trở thành cái “ngoại thường”: Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi” (Xh 3:2). Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Ý nghĩa của nó là: Thiên Chúa thường dùng những cái quen thuộc trong ngày sống của chúng ta để mạc khải mầu nhiệm của Ngài. Để nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta phải đi ra khỏi thái độ “làm theo thói quen” của thường ngày và học để trở nên nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa trong những cái bình thường của ngày sống. Hơn nữa, khi Thiên Chúa mạc khải chính mình cho ai, thì Ngài đồng thời mời gọi họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa mạc khải cho Môsê vì Ngài “đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Aicập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3:7-8a). Ngài mời gọi Môsê cộng tác với Ngài trong việc mang lại sự giải phóng khỏi nô lệ cho dân của Ngài. Cũng vậy, qua những công việc bình thường của ngày sống, Thiên Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta và mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài hầu làm cho gia đình [cộng đoàn], giáo xứ, Giáo Hội và thế giới ngày càng trở nên yêu thương hơn.

Cuối cùng, bài đọc 1 hôm nay chỉ ra cho chúng ta thái độ cần thiết nhất khi đến với Chúa là sự cung kính. Chúng ta thấy Thiên Chúa đòi buộc Môsê: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (Xh 3:5). Thái độ của chúng ta khi đến với Chúa thế nào? Chúng ta có cung kính Ngài như Ngài đáng được cung kính không? Nhiều người trong chúng ta biện minh rằng: Chúa không cần vẻ bên ngoài, Chúa chỉ để ý đến bên trong con tim của con người. Đúng là như thế. Tuy nhiên, chúng ta là một con người có hồn có xác, chúng ta phải đến với Chúa với vẻ đẹp bên trong lẫn bền ngoài của một con người toàn diện. [Trừ trường hợp chúng ta không có đủ điều kiện để chuẩn bị vẻ bề ngoài của mình cách chỉnh tề vì mình quá nghèo].  Chúng ta lấy một ví dụ trong cuộc sống để làm sáng tỏ điều chúng ta muốn nói: khi được mời đến gặp một người nổi tiếng hoặc có chức sắc trong xã hội và Giáo Hội, chúng ta có ăn mặc chỉnh tề không? Chắc chắn chúng ta không thể ăn mặc như đi dạo chơi để gặp họ. Chúng ta phải ăn mặc chỉnh tề trong những dịp như thế. Khi đi gặp những con người mà chúng ta đã tỏ ra lịch sự trong vẻ bề ngoài để tỏ sự tôn trọng người khác, thì khi đến với Chúa chúng ta cũng phải có sự cung kính tương xứng, nếu không nói là chọn những gì đẹp nhất để đến với Ngài. Ước mong chúng ta đến với Chúa với vẻ đẹp bên ngoài thân xác và bên trong tâm hồn!

Như chúng ta đọc thấy trong bài đọc 1, câu chuyện về ơn gọi của Môsê xảy ra trong sa mạc, gần núi thánh của Thiên Chúa. Hình ảnh này là khởi đầu và đã gắn liền với lịch sử của dân Israel trong thời gian họ hành trình trong sa mạc: là thời gian của mạc khải và giao ước. Tuy nhiên, theo Thánh Phaolô, thời gian của Môsê và dân Israel trong sa mạc cũng là thời gian đầy bất tuân và phàn nàn Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết trong bài đọc 2: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1 Cr 10:1-5). Những lời này của Thánh Phaolô nhằm mục đích răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa (x. 1 Cr 10:6), hay đúng hơn những “bản năng tự nhiên” của mình. Chúng ta không nên lẩm bẩm kêu trách người khác và Thiên Chúa về những khó khăn và thử thách trong cuộc sống của chúng ta. Trong mọi thử thách phải cậy dựa vào Thiên Chúa hơn là vào sức của mình. Thánh Phaolô cảnh báo những ai tưởng mình đang đứng vững phải cẩn thận: “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Hãy khiêm nhường khi thành công và không thất vọng khi thất bại!

Bây giờ, chúng ta cùng nhau tập trung vào Bài Tin Mừng để lắng nghe, suy gẫm và đem ra thực hành những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Luca. Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay dạy các môn đệ Chúa Giêsu rằng: Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót, nhưng lòng thương xót của Ngài không mang tính “uỷ mị.” Ngài muốn tội nhân sám hối trước khi quá trễ. Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: trong phần thứ nhất (Lc 13:1-5), Chúa Giêsu kêu gọi mọi người phải sám hối; phần hai (Lc 13:6-9) trình thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái.

Theo niềm tin của người Do Thái thời đó, những ai gặp tai ương là những người tội lỗi bị Thiên Chúa trừng phạt. Chúa Giêsu mời gọi họ phải thay đổi lối suy nghĩ này. Họ không hoặc chưa gặp điều tai ương không phải là họ không có tội. Họ cũng như bao nhiêu người khác, cũng chia sẻ thân phận con người mỏng manh yếu đuối. Chúa Giêsu lặp lại điệp khúc sám hối hai lần: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3,5). Sự lặp lại này tạo nên bối cảnh cho câu hỏi của các môn đệ về việc chỉ một ít người được cứu độ (Lc 13:23) khi Chúa Giêsu nói cho họ biết phải qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa. Khi thuật lại hai trường hợp không may của những người Galilê bị Philatô giết và những người bị tháp Silôam đè chết (x. Lc 13:1,4), Thánh Luca muốn khuyến cáo các thành viên trong cộng đoàn của mình và chúng ta rằng: những điều không may xảy ra cho người khác chính là lời cảnh báo cho chúng ta phải thay đổi và cảnh giác mà nhiều lần chúng ta đã không nghe. Thật vậy, nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng “cứng đầu,” không muốn thay đổi và sám hối. Chúng ta thấy hậu quả của những lỗi người khác tạo ra, nhưng chúng ta không muốn học. Chúng ta nhắm mắt và sống cách bất cần. Ví dụ, chúng thấy hậu quả của những người bài bạc, rượu chè hoặc hút chích, hoặc những phản ứng khi nóng giận làm tổn thương người khác, hoặc sống một đời sống luân lý không lành mạnh, chúng ta trách họ. Nhưng rồi đến lượt mình, chúng ta lại rơi vào và sống mãi ở trong đó. Ở đây, Chúa Giêsu nói đến những cái chết bất ngờ của người khác để dạy các môn đệ và chúng ta phải sám hối và sẵn sàng cho việc phán xét [cho cái chết]. Nếu chúng ta không tha thứ, không hoà giải, nếu chúng ta giữ sự ghen tỵ và nóng giận trong lòng và chết bất ngờ trong tình trạng đó, chúng ta sẽ đi về đâu? Đừng chờ đến khi quá muộn để yêu thương và tha thứ; đừng chờ đến lúc quá muộn để nói lời yêu thương và làm những cử chỉ yêu thương cho người thân của mình!

Trong phần 1 của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh của một Đức Kitô rất cứng rắn trong lời mời gọi sám hối của mình. Nếu không sám hối, hậu quả không lường sẽ xảy ra cho họ. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược, hay đúng hơn được làm nhẹ đi trong phần 2. Theo các học giả Kinh Thánh, đây là dụ ngôn về lòng thương xót mà Luca sẽ khai triển trong những chương tiếp theo, nhất là trong ba dụ ngôn trong chương 15: mất đồng tiền, mất chiên và mất con. Dụ ngôn này mang lại cho người nghe trong cộng đoàn của Thánh Luca thời đó và chúng ta ngày hôm nay một sự an ủi khi chúng ta vấp ngã trên con đường theo Chúa. Tuy nhiên, nó cũng là một dụ ngôn mang tính khuyên răn cho những người hay chần chừ, trì hoãn việc thay đổi và sinh hoa trái tốt trong cuộc sống. Chúng ta có thuộc loại này không?

Dụ ngôn trong phần hai của bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta về cây vả không sinh hoa trái và người chủ muốn chặt bỏ nó: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ (Lc 13:6-7). Hình ảnh cây vả không sinh hoa trái là hình ảnh của người không sám hối. Tuy nhiên, điều đáng an ủi cũng là thách đố cho chúng ta được tìm thấy trong câu: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Câu này hàm chứa hai điều: một mặt cây vả được cho thêm thời gian, được chăm sóc để sinh hoa trái vào mùa sau, nhưng mặt khác cây vả được đòi hỏi phải sinh hoa trái. Áp dụng vào trong cuộc sống của mình, chúng ta được Thiên Chúa cho thêm thời gian để sám hối và sinh hoa trái. Nói cách cụ thể hơn, liệu chúng ta có thay đổi sau thánh lễ hôm nay không? Liệu chúng ta có sinh hoa trái tốt lành cho Chúa khi Ngài đến gặp chúng ta không? Khốn cho chúng ta nếu khi Ngài đến mà không thấy chúng ta sinh được hoa trái tốt lành, thánh thiện nào.

Cuối cùng, hình ảnh “ba năm” nói đến ba năm Chúa Giêsu rao giảng và nhiều người nghe Ngài: có người thay đổi và sinh hoa trái, nhưng cũng có người chống đối và giết chết Ngài. Chúng ta thuộc loại nào trong hai loại trên? Chúng ta không chỉ nghe Chúa Giêsu rao giảng ba năm. Nhiều người trong chúng ta đã năm năm, mười năm, hai mười năm, ba mươi năm hoặc tám mươi năm đã nghe Chúa Giêsu rao giảng mỗi ngày hoặc mỗi Chúa Nhật. Chúng ta có sinh được hoa trái tốt lành nào để dâng cho Chúa không? Hay là con người của mấy chục năm về trước vẫn là con người của chúng ta bây giờ: một con người luôn dễ dàng nóng giận của 40 năm về trước bây giờ vẫn như vậy, hoặc con người không tha thứ 60 năm về trước đến giờ vẫn chưa chịu tha thứ cho người khác. Hãy sám hối và sinh hoa trái tốt trước khi quá muộn!

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB