(Is 7:10-14; Rm 1:1-7; Mt 1:18-24)
Lời Chúa trong hai tuần vừa qua tập trung vào hình ảnh của Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh nhân đứng trước chúng ta như là một người thách thức và sống động, đại diện cho một loại sứ mệnh mang tính đàn ông trong cuộc sống. Thánh nhân là một người kêu gọi rất nghiêm nghị đến với metanoia (sự thống hối): đến với một sự thay đổi lối suy nghĩ, hoặc sự trở lại (hối lỗi). Bất kỳ ai muốn là một người Kitô hữu thánh thiện phải liên tục thay đổi lối suy nghĩ và nhãn quan của mình, vì tự bản tính chúng ta luôn có khuynh hướng khẳng định chính mình, đưa ra cái này hoặc cái kia để làm cho chúng ta thành tâm điểm của sự chú ý. Nếu chúng ta muốn tìm thấy Thiên Chúa, chúng ta phải luôn luôn trải qua một sự trở lại của nội tâm, quay lại và di chuyển theo hướng ngược lại, và ngay cả chuyển hướng toàn bộ ý niệm về cuộc sống của chúng ta.
Trong Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật cuối của Mùa Vọng, lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng một nhân vật khác, đó là Mẹ Maria, người tớ nữ tinh tuyền của Đức Chúa. Điểm đầu tiên chúng ta cần lưu ý khi nói về Mẹ Maria là sứ điệp của Mẹ: đây là một sứ điệp hoàn toàn khác với sứ điệp của Thánh Gioan Tẩy Giả: Mẹ là một gương mẫu, không phải của hoạt động của nam giới, nhưng của sự đón nhận của nữ giới.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay nói về Tin Mừng mà ngài loan báo, đây là Tin Mừng mà Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ mà hứa trong Kinh Thánh (x. R 1:2): Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Xét như một người phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1:3-4). Trong những lời này, Thánh Phaolô một cách nào đó chứng minh cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có ‘hai bản tính’ – con người và Thiên Chúa. Như thế, khi chúng ta tách nhân tính của Chúa Giêsu khỏi thần tính của Ngài hoặc ngược lại, thì Chúa Giêsu không còn là chính Ngài nữa. Cả hai bản tính ‘hợp nhất’ trong một ngôi vị, Ngôi Hai Thiên Chúa. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu điều tác giả thư gởi tín hữu Do Thái nói Ngài nên giống chúng ta trong mọi sự [nhân tính], ngoại trừ tội lỗi [thần tính] (x. Dt 4:15).
Điều Thánh Phaolô trình bày trong bài đọc 2 về Chúa Giêsu, đó là “xét như một người phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” (Rm 1:3-4). Điều này được Tin Mừng hôm nay làm sáng tỏ qua trình thuật về ‘truyền tin’ cho Thánh Giuse. Chúng ta có thể nói rằng đoạn Tin Mừng hôm nay và trình thuật về biến cố Truyền Tin cho Maria và sự thụ thai cách lạ thường của Con Thiên Chúa thường được đọc trong những thánh lễ tôn kính Mẹ Maria. Trong trình thuật của Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể rút ra những điểm sau để suy gẫm:
Thứ nhất, việc thụ thai lạ thường của Mẹ Maria: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18). Những lời này nói về gốc tích của Chúa Giêsu, không phải đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Sự kiện được trình bày ở đây là Mẹ Maria đã đính hôn với Giuse. Theo phong tục người Do Thái thời đó, khi đã đính hôn thì hai người có quyền sống chung với nhau. Tuy nhiên, trong những lời trên chúng ta được biết là việc Maria có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần xảy ra trước khi hai người về chung sống với nhau. Điều này ám chỉ việc ‘trinh nữ sẽ thụ thai’ như đã được tiên báo bởi Ngôn Sứ Isaia trong bài đọc 1: “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen” (Is 7:14). Chúng ta cũng có thể tự hỏi như Mẹ Maria: “Điều đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Nhưng rồi, Thiên Chúa phán qua sứ thần: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không làm được.” Những lời này an ủi chúng ta thật nhiều trong cuộc sống, nhất là những lần chúng ta gặp những thách đố, những khó khăn, những đau khổ mà nhìn từ khía cạnh con người chúng ta không thể vượt qua hoặc chịu đựng được. Trong những giây phút đó, Thiên Chúa cũng nói với chúng ta như đã nói với Mẹ Maria: Hãy vững tin vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.
Thứ hai, sự công chính của Thánh Giuse: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1:19). Sự công chính của Giuse hệ tại việc tuân phục Lề Luật, đó là tố cáo Maria (Đnl 22:20-21), nhưng điều này được làm cho cân bằng bởi chính lòng thương của thánh nhân. Chính tình yêu đã ngăn cản Giuse khỏi việc đòi có một bản án tương xứng cho Maria, đó là bị ném đá theo luật. Nói cách đơn giản hơn, Thánh Giuse đã vượt qua đức công bình [đòi lại cách chính xác những gì thuộc về mình theo luật] để đạt đến đức ái toàn hảo [tìm lợi ích cho người khác]. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đối xử với nhau theo kiểu “răng đền răng, mắt đền mắt.” Chúng ta thường tìm lợi ích cho chính mình mà chà đạp trên nhân phẩm và sự sống của anh chị em mình. Hạnh phúc trong cuộc sống không hệ tại việc người khác làm cho mình hạnh phúc, nhưng hệ tại việc chính mình phải làm gì để cho người khác [nhất là những người thân] được hạnh phúc. Làm sao chúng ta có thể an hưởng hạnh phúc khi anh chị em mình không được tôn trọng. Người Kitô hữu thánh thiện là người sống theo luật bác ái, chứ không chỉ sống theo sự công bình: Thiên Chúa yêu chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Là con của Ngài, chúng ta không thể yêu anh chị em mình khi họ làm chúng ta đau khổ sao?
Thứ ba, lời Chúa hứa qua miệng các ngôn sứ sẽ được thực hiện: “Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:22-23). Qua dòng lịch sử, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn trung thành với lời hứa của mình. Ngài luôn thực hiện những gì Ngài đã hứa. Và chúng ta biết, Thiên Chúa chỉ hứa với chúng ta một điều, đó là ban cho chúng ta chính con một của Ngài để cứu độ chúng ta. Chi tiết này mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình, nhất là những lời hứa của chúng ta với Chúa và với anh chị em mình. Người ta thường nói rằng: Trong cuộc sống, nếu cần phải hứa thì chỉ hứa những gì nằm trong khả năng của mình, hứa những gì mình có thể làm được với ơn Chúa giúp. Khi đã hứa, thì phải thực hiện điều mình đã hứa. Đừng làm cho người khác mất niềm tin về mình ví hứa mà không thực hiện.
Cuối cùng, thái độ mau mắn thực hành thánh ý Thiên Chúa của Giuse: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà” (Mt 1:24). Trong những lời này, chúng ta thấy Thánh Giuse thực hiện hai điều quan trọng, đó là (1) làm như sứ thần Chúa dạy, và (2) đón vợ về nhà. Hành động thứ nhất nói lên việc “chuẩn xác” trong việc thực thi thánh ý Chúa. Điều này nhắc nhở chúng ta về khuynh hướng cắt nghĩa hoặc ‘lèo lái’ ý Chúa theo ý của mình để thực hiện. Thánh Giuse nêu gương cho chúng ta phải làm ‘như’ điều Chúa truyền qua sứ thần, chứ không làm ‘như’ điều mình muốn. Hành động thứ hai nói lên tình yêu trọn vẹn của Giuse dành cho Mẹ Maria. Hành động ‘đón vợ về nhà’ ám chỉ việc hoàn toàn chấp nhận. Thánh Giuse hoàn toàn chấp nhận Mẹ mà không còn suy tính hay lưỡng lự. Điều này mời gọi chúng ta đón nhận anh chị em mình với những gì họ là, với những ưu điểm và khuyết điểm của họ. Tình yêu đích thực là tình yêu vượt qua tổn thương để yêu người làm tổn thương mình và đón nhận họ vào trong con tim mình.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
