Suy Niệm Lời Chúa – Chúa Nhật XIV Thường Niên – Niềm Vui Được Chọn Và Sai Đi

(Is 66:10-14c; Gl 6:14-18; Lc 10:1-12.17-20)

Tuần trước, lời Chúa tập trung vào ơn gọi, trong Cựu Ước [Êlisa] và trong Tân Ước [người môn đệ của Chúa Giêsu]. Lời Chúa tuần này tiếp tục đề tài về ơn gọi, nhưng nhìn từ khía cạnh được sai đi. Bài đọc 1 trích từ Sách Ngôn Sứ Isaia [phần 3]. Trong phần này, Giêrusalem chiếm vị trí trung tâm. Đây là bài ca nói về niềm vui: niềm vui với và niềm vui cùng Giêrusalem. Niềm vui cho Thành Thánh Giêrusalem được đặt đối nghịch với nỗi buồn đến từ việc Ngôn sứ chống đối lại những nghi lễ tôn thờ sai lạc trong đền thánh. Hai thái độ trái ngược này sẽ được tìm thấy trong bài Tin Mừng qua những lời hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi đối diện với những làng đón tiếp và không đón tiếp họ. Chúng ta sẽ trình bày chi tiết về điều này sau khi chúng ta suy gẫm về bài Tin Mừng. Điều đáng để chúng ta suy gẫm ở đây là sứ điệp của bài đọc 1: đâu là nguồn gốc của niềm vui mà Giêrusalem tận hưởng?

Những người được mời gọi vui mừng với và cùng Thành Đô là “tất cả những người yêu mến Thành Đô” và “tất cả những người đã than khóc Thành Đô” (Is 66:10). Qua những lời lẽ mang tính thơ ca của mình, Ngôn sứ đã ví Giêrusalem như người mẹ đầy sữa [lời hứa cho Israel: “đất chảy sữa và mật” (x. Xh 3:17)]. Nguồn gốc niềm vui của Thành Đô đến từ Thiên Chúa, đến từ việc Đức Chúa sẽ  “tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ” (Is 66:12). Hơn thế nữa, niềm vui của Thành Đô đến từ việc cảm nghiệm được tình yêu và sự chăm sóc của Thiên Chúa như người mẹ hiền chăm sóc con thơ: “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về. Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh. Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người cho các tôi tớ biết” (Is 66:13-14a). Những lời này Ngôn sứ thốt lên để an ủi dân bị lưu đày. Những người mới trở về, đang than khóc vì thấy sự hoang tàn của Thành Đô Giêrusalem. Trong bối cảnh đó, những lời của Ngôn sứ là những lời an ủi, đầy yêu thương đến từ Đức Chúa. Những lời này đem lại cho dân niềm vui để xây dựng lại Thánh Đô sau bao nhiêu năm xa cách. Những lời này có ý nghĩa gì cho cuộc sống chúng ta? Trong cuộc sống, chúng ta cũng gặp biết bao thăng trầm. Nhiều lần phải than khóc vì mất mát, vì tổn thương. Thiên Chúa cũng đến và nói với chúng ta những lời đầy an ủi, đầy yêu thương. Trong những giây phút đau buồn đó, Ngài bồng ẵm chúng ta trên cánh tay, nâng niu trên đầu gối. Tuy nhiên, chúng ta có đến với Ngài để được an ủi, vỗ về không hay chúng ta đi tìm sự an ủi nơi những con người hoặc trong những thói hư tật xấu? Cuộc đời có nhiều niềm vui, nhất là niềm vui luôn có Chúa bên cạnh, như mẹ hiền ấp ủ con thơ!

Đề tài về niềm vui trong than khóc [đau khổ] được Thánh Phaolô trình bày cách tuyệt diệu trong bài đọc 2 hôm nay. Thánh nhân chỉ ra ước muốn duy nhất của mình, đó là hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô. Tại sao lại hãnh diện về thập giá? Thập giá là một phương tiện được dùng để xử tội những tử tù. Nhưng lại trở nên điều để hãnh diện cho Thánh Phaolô. Thật là một nghịch lý! Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng, thánh nhân không hãnh diện trong bất kỳ loại thập giá nào. Ngài chỉ hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, vì qua thập giá của Ngài, Đức Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần gian. Qua thập giá Đức Giêsu Kitô, chúng ta được trở nên một tạo vật mới, vì chúng ta đã đóng đinh con người cũ của mình vào thập giá (x. Gl 6: 14-15). Khi đóng đinh với Đức Giêsu Kitô, Thánh Phaolô cho biết, ngài “mang trên mình những dấu tích của Đức Giêsu” (Gl 6:17). Chúng ta cũng đã đóng đinh chính mình vào thập giá Chúa Giêsu, như thế chúng ta cũng mang trên mình những dấu tích của Ngài. Những dấu tích này phải chữa lành chúng ta khỏi những vết thương mà tội lỗi đã gây ra, vì “Người đã mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pt 2:24). Chúng ta cũng được mời gọi chữa lành anh chị em chúng ta qua những “vết thương tình yêu” mà người khác tạo ra. Hãy biến những vết thương người khác tạo ra trên chúng ta thành những bằng chứng tình yêu, một tình yêu mạnh hơn sự chết và đau khổ!

Tuần trước chúng ta đã nghe việc Chúa Giêsu trả lời cho những người muốn theo Ngài về những điều kiện cần thiết. Tuần này bài Tin Mừng được đặt trong bối cảnh Chúa Giêsu dạy các môn đệ về đời sống rao giảng (Lc 10:1-24). Đây là bản văn suy gẫm dài nhất của Thánh Luca về sứ mệnh. Điểm đầu tiên chúng ta cần lưu ý là Thánh Luca không quan tâm đến sứ mệnh hiện tại mà các môn đệ thực hiện cho bằng tập trung vào bản chất của sứ mệnh cũng như những nguyên nhân mang lại niềm vui và nỗi buồn trong việc thực thi sứ mệnh. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: phần 1 (Lc 10:1-12) trình bày việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ về bản chất, những thái độ và những chuẩn bị cần thiết cho sứ mệnh; phần 2 (Lc 10:17-20) nói về việc các môn đệ vui mừng về những thành quả họ đạt được khi thi hành sứ mệnh. Trong phần này, chúng ta cũng tìm thấy chi tiết của lời Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về niềm vui đích thật mà các ông phải đạt được khi thi hành sứ mệnh. Chúng ta cùng nhau phân tích hai phần cách chi tiết để rút ra những sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong ngày hôm nay.

Trong phần 1, chi tiết đầu tiên đáng suy gẫm là hai “con số,” đó là “bảy mươi hai” và “hai người một” [từng cặp]. Con số bảy mươi hai có nguồn gốc trong Cựu Ước [sách Sáng Thế 10:2-31], đây là con số tượng trưng cho các quốc gia trên thế giới [con số các quốc gia được biết đến trong thời gian đó]. Khi Thánh Luca dùng con số này, thánh sử ngụ ý nói đến tính phổ quát của sứ mệnh truyền giáo mà Giáo Hội phải thực hiện. Sứ mệnh này có nguồn gốc nơi Đức Giêsu [72 người đến từ 72 quốc gia]. Điều này được diễn tả qua việc chính Chúa Giêsu “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác.” Chi tiết này ám chỉ việc Thiên Chúa muốn cứu hết mọi người, không loại trừ một ai. Còn khi sai các môn đệ “hai người một,” Chúa Giêsu muốn các ông (1) nâng đỡ nhau, (2) làm chứng cho sự thật về những gì họ rao giảng [đây là điều kiện được đặt ra trong Đnl 19:15], (3) là hiện thân sống động của Tin Mừng bình an [không bất hoà giữa nhau] (x. câu 5-6). Một trong những ví dụ cụ thể về cặp đôi này là Thánh Phaolô và Banaba được trình bày trong chương 13 của sách Công Vụ Các Tông Đồ. Sau khi đã dàn dựng sân khấu, đó là việc nói về tính phổ quát của sứ mệnh và tính cách “làm việc chung” khi thi hành sứ mệnh, Thánh Luca bắt đầu trình bày về những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ.

Thứ nhất, Ngài dạy các ông phải biết cầu nguyện trước khi đi thi hành sứ mệnh: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2). Trong câu này, chúng ta thấy được sự khẩn cấp trong việc thu hoạch qua hình ảnh đối nghịch giữa “lúa chín đầy đồng” và “thợ gặt lại ít.” Sự khẩn thiết này là động lực để “xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Chi tiết cần lưu ý ở đây là người được sai đi chỉ là thợ gặt, chứ không phải là chủ mùa gặt. Nói cách cụ thể, Thiên Chúa là chủ mùa gặt, còn các môn đệ là những thợ gặt. Lúa [thành quả công việc] không thuộc về họ, nhưng thuộc về Thiên Chúa. Niềm vui của họ là được sai đi làm thợ gặt. Tuy nhiên, việc trở nên thợ gặt và được sai đi là kết quả của việc “cầu xin” [cầu nguyện]. Những chi tiết này nhắc nhở về mối tương quan cần thiết và không thể tách rời với Thiên Chúa, chủ mùa gặt, mà chúng ta cần phải có khi được sai đi. Khi không ý thức mối tương quan này, chúng ta sẽ rơi vào nguy hiểm là biến mình trở thành chủ của mùa gặt, đồng thời chiếm hữu những thành quả đúng ra phải thuộc về Chúa. Chúng ta sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm này khi chúng ta ngừng cầu nguyện với Chủ mùa gặt.

Thứ hai, Ngài dạy họ về bản chất, những thái độ cần thiết khi thi hành sứ mệnh (x. Lc 10:3-11). Chúa Giêsu nói đến bản chất của sứ mệnh rao giảng trong những lời sau: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10:3). Hình ảnh “chiên đi vào giữa bầy sói” mang hai bình diện: (1) các môn đệ có thể trở nên những người không thể bảo vệ chính mình trước những dân chống đối; (2) sứ mệnh rao giảng của Kitô Giáo khởi đầu một kỷ nguyên [thời đại] mới của bình an và hoà giải trong đó chiên sẽ nằm với sói (x. Is 11:6; 65:25). Hai bình diện này chi phối những lời dạy tiếp theo của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể thấy điều này trong ba trường hợp sau: (1) với cá nhân – “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Không mang tiền, bao bị, giáy dép nói lên việc người môn đệ không có gì để dựa vào hầu bảo vệ chính mình. Còn đừng chào hỏi ai dọc đường liên quan đến bình an đích thật mà các môn đệ loan báo trong bối cảnh gia đình và thành [nước]; (2) với gia đình [“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10:5)] – chúng ta cũng thấy hai điều đối ngược xảy ra: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em” (Lc 10:6). Nếu được đón tiếp, họ “ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” (Lc 10:7); (3) với thành [nước] – họ sẽ làm nhiều việc hơn trong những thành họ được đón tiếp, đó là “cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” (Lc 8-9). Những lời này cho chúng ta thấy rằng qua việc rao giảng Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu, Triều Đại Thiên Chúa được thể hiện. Tuy nhiên, khi bị chối từ, “họ sẽ giũ bụi đất ở chân trả lại thành.” Những lời này có ý khuyến cáo các môn đệ rằng không phải vì không được đón tiếp mà họ quên rao giảng sứ điệp Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, dù “bực mình” vì không được đón nhận, nhưng các môn đệ không bao giờ quên trách nhiệm của mình, đó là nói cho thành đó “biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” Chi tiết này muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì? Trong việc rao giảng Tin Mừng [hoặc sống đạo], chúng ta phải vượt qua sự khó chịu, bực mình với một ai đó [ông cha, bà sơ, một người trong ban hành giáo, v.v.] để tiếp tục rao giảng Tin Mừng, tiếp tục sống dấn thân, sống yêu thương, sống tốt. Đừng vì bất kỳ ai mà ngừng làm môn đệ Chúa Giêsu!

Nội dung chính của phần 2 là những hiệu quả gặt hái được khi thi hành sứ mệnh nhân danh Chúa Giêsu. Phần này bắt đầu và kết thúc với “niềm vui.” Trong câu mở đầu, “nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17).  Câu này gợi lại cho chúng ta quyền năng của Chúa Giêsu trên ma quỷ ở Galilê (x. Lc 8:26-39) và quyền năng này được ban cho nhóm Mười Hai (x. Lc 9:1-2). Điều này ám chỉ việc nhóm 72 chia sẻ trong cùng quyền năng Chúa Giêsu ban cho nhóm Mười Hai. Trong câu này, chúng ta thấy nguyên nhân làm cho các môn đệ “hớn hở” [vui mừng], đó là ma quỷ cũng khuất phục chúng con [chứ không phải Thầy hoặc Thiên Chúa]. Qua niềm vui này, dường như các môn đệ quên mất rằng họ đã lãnh nhận quyền năng trên các thần ô uế từ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lấy đi niềm vui đó của các ông, nhưng trong câu cuối cùng, Ngài nhắc nhở các môn đệ đâu là lý do đem lại niềm vui đích thật: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20). Niềm vui đích thật chỉ tìm thấy ở trong Thiên Chúa chứ không phải trong những thành quả công việc mình làm. Để hiểu điều này, Chúa Giêsu, qua hai câu giữa, giải thích cho các môn đệ về lý do tại sao các ông không nên vui vì những thành quả của mình, nhưng vui mừng vì thành quả Thiên Chúa ban cho họ [tên được ghi trên trời]: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10:18-19). Hai câu này nhắc nhở các môn đệ rằng qua sứ vụ của Chúa Giêsu [và của Giáo Hội], quyền lực của Xatan bị tấn công và đánh bại. Họ tiếp tục sứ vụ này của Chúa Giêsu vì họ được Ngài ban cho quyền năng của Ngài. Mỗi ngày sống là một cơ hội để tiếp tục sứ mệnh rao giảng [làm gương sáng] và đánh bại sự dữ [thói hư tật xấu]. Hãy nhớ rằng, chúng ta chỉ làm được điều này với quyền năng Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa trái tim Chúa luôn luôn!

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng,SDB