(St 18:20-32; Cl 2:12-14; Lc 11:1-13)
Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về thái độ khi cầu nguyện. Một trong những thái độ cần thiết đó là phải “cầu nguyện luôn.” Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta câu chuyện về Ápraham đối thoại với Thiên Chúa hầu xin Ngài không hủy diệt thành Xơđôm và Gômôra. Để cảm nghiệm được vẻ đẹp cuộc đối thoại này và thấy được thái độ “chậm giận và giàu tình thương của Chúa,” chúng ta cùng nhau viết lại cuộc đối thoại như sau:
Ápraham: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” (St 18:24-25).
Đức Chúa: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó” (St 18:26).
Ápraham: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28).
Đức Chúa: “Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người” (St 18:28).
Ápraham: “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?” (St 18:29).
Đức Chúa: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm” (St 18:29).
Ápraham: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?” (St 18:30).
Đức Chúa: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm” (St 18:30).
Ápraham: “Con xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như tìm được hai mươi người thì sao?” (St 18:31).
Đức Chúa: “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ” (St 18:31).
Ápraham: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao?” (St 18:32).
Đức Chúa: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơđôm” ((St 18:32).
Đọc đoạn đối thoại này, chúng ta thấy thái độ của Ápraham thay đổi mỗi khi ông xin Chúa. Nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trả lời với trọn tình thương. Câu hỏi chúng ta đặt ra ở đây là: Phải chăng Ápraham dừng cầu xin quá sớm? Nếu ông tiếp tục cầu xin cho đến khi chỉ tìm được một người công chính [ông Lót, cháu ông] để Chúa không tiêu diệt Xơđôm, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ông điều ông xin. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng xin Chúa cho mình hoặc người thân được khỏi bệnh, xin cho mình và người thân được ơn như ý. Nhưng cầu nguyện hoài mà chẳng thấy Chúa nhận lời. Vì vậy, chúng ta bỏ cuộc. Nhiều người bỏ đức tin vì điều mình xin không được ban. Chúng ta thấy trong bài đọc 1 điều Ápraham xin không được ban. Xơđôm vẫn bị phá huỷ. Nhưng không vì thế mà ông đánh mất niềm tin vào Chúa.
Đề tài cầu nguyện liên lỉ được tiếp tục trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như mẫu gương cầu nguyện: “Một hôm, Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: ‘Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông’” (Lc 11:1). Những lời này chỉ cho chúng ta thấy rằng đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu có một sức thu hút mãnh liệt. Nói cách khác, các môn đệ bị cuốn hút bởi mối tương quan thân tình với Thiên Chúa được diễn tả qua đời sống cầu nguyện của Ngài. Điều này làm chúng ta xét lại chính đời sống cầu nguyện của mình. Cầu nguyện là cách thức diễn tả mối tương quan đầy yêu thương với Thiên Chúa. Qua cầu nguyện, chúng ta bị cuốn hút vào trong vẻ đẹp, tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể phân ra ba phần: phần 1 (Lc 11:2-4) chứa đựng nội dung cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ [chúng ta]; trong phần 2 (Lc 11:5-8), Chúa Giêsu kể cho các môn đệ một dụ ngôn nhằm dạy các ông về sự kiên trì trong cầu nguyện; và phần 3 (Lc 11:9-13) trình bày cho chúng ta lời hứa.
Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ chính là lời cầu nguyện Ngài sử dụng hằng ngày để đối thoại với Chúa Cha. Chúng ta gọi lời cầu nguyện này là Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” Lời kinh này diễn tả hai chiều kích của cầu nguyện, đó là quy thiên hoặc quy tha, hay đúng hơn là hai chuyển động của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Chúng ta thấy chiều kích quy thiên [yêu Chúa] được diễn tả trong hai lời nguyện: làm cho danh Thánh Cha vinh hiển và Triều Đại Cha mau đến. Trong khi đó, khía cạnh quy tha [yêu người] được diễn tả trong lời cầu cho lương thực nuôi dưỡng thân xác [ngày nào có lương thực ngày ấy] và lương thực cho đời sống thiêng liêng [được ơn tha tội, có khả năng tha cho người khác, và không sa chước cám dỗ].
Tuy nhiên, cầu nguyện không chỉ được thực hiện theo cảm tính tự nhiên, tức là chỉ làm khi mình thích hoặc khi điều mình xin được ban cho. Chúa Giêsu qua dụ ngôn người bạn đến mượn đồ, chỉ ra cho chúng ta một đức tính cần thiết cho đời sống cầu nguyện, đó là sự kiên nhẫn và khiêm nhường. Chúng ta cũng có thể nói rằng: sự kiên nhẫn và khiêm nhường này là hệ quả của việc nhận ra rằng mình không thể tự đủ, mình cầu đến Chúa và ơn thánh của Ngài. Lời kết luận của Chúa Giêsu sau khi kể về dụ ngôn đáng làm chúng ta quan tâm: Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó” (Lc 11:8). Chúa Giêsu muốn chúng ta “lì ra đó” khi đến cầu nguyện với Ngài, nhất là trong lời cầu nguyện van xin. Kiên nhẫn cho đến khi chúng ta được ban cho những gì mình cần. Đây chính là điều Ngài nhắm để khi hứa với các môn đệ về việc họ sẽ được ban cho những gì họ xin.
Những lời Chúa Giêsu hứa với các môn đệ dường như không thường đi với thực tế. Nhiều người trong chúng ta đã kinh nghiệm thấy mình xin mà không đượx, tìm mà không thấy, gõ cửa mà không được mở. Hệ quả là tình cảm chúng ta dành cho Chúa ngày càng nhạt đi. Tuy nhiên, khi đọc kỹ những lời sau, chúng ta sẽ nhận ra một điều rất tuyệt diệu trong lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:11-13). Trong những lời này, chúng ta thấy Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ không phải những gì họ xin [họ muốn], nhưng ban cho họ Thánh Thần. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Thánh Thần là món quà quan trọng nhất mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ. Đây là món quà mà Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ ban cho các môn đệ, những người sợ hãi và buồn sầu. Món quà Chúa Thánh Thần tổng hợp hết tất cả những gì mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ của mình: Niềm vui, sức mạnh, can đảm để làm chứng cho tình yêu vô điều kiện và trung thành của Thiên Chúa. Như vậy, đối với Thánh Luca, món quà quan trọng nhất mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là Chúa Thánh Thần, Đấng giúp chúng ta có đủ can đảm để làm chứng cho Chúa Giêsu ngay cả khi phải đối diện với khó khăn, chống đối và cái chết. Cầu nguyện không phải là để được ban cho những gì mình muốn, nhưng được ban cho niềm vui để theo Chúa và sự can đảm để làm chứng cho Ngài trong đời sống hằng ngày. Để làm được điều đó, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc nhở chúng ta về việc chúng ta “đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết” (Cl 2:12). Trong phép rửa, chúng ta đã chết cho con người hay sa ngã, để chỉ sống với Đức Kitô. Nhưng sống với Đức Kitô là sống trong Thiên Chúa, sống một đời sống hợp nhất [nên một] với Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB