(Kn 9:13-18; Plm 9b-10.12-17; Lc 14:25-33)
Ai trong chúng ta cũng muốn biết được thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta mong mỏi tìm kiếm: nhiều người tìm ra, nhưng cũng không ít người không tìm thấy. Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết thực tại đầy khó khăn của việc biết được ý định của Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn Ngoan dùng hai từ “biết” và “hiểu” để nói về thực tại này: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? (Kn 9:13). Kinh nghiệm sống dạy chúng ta rằng biết ý định của Thiên Chúa đã là khó, hiểu điều Chúa muốn lại càng khó hơn. Điều này xảy ra vì chúng ta “vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (Kn 9:14). Không ít lần chúng ta không thể đi vượt qua những gì chúng ta nhìn thấy, nên những nhận định và xét đoán của chúng ta rất nông cạn. Hệ quả là chúng ta làm tổn thương nhau. Giống như Thánh Phaolô nói, tinh thần thì mạnh mẽ, nhưng thân xác lại yếu đuối. Điều này cũng giống như lời của tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” (Kn 9:15). Điều này cho thấy, từ bỏ chính mình để theo Chúa Giêsu như được đòi hỏi trong bài Tin Mừng không dễ dàng. Để có thể từ bỏ chính mình, chúng ta phải ý thức được thân phận yếu đuối mỏng dòn và giới hạn của mình. Chúng ta ý thức được giới hạn của mình vì không phải mọi sự xảy ra trên thế giới này chúng ta đều biết. Ngay cả những thứ gần gũi mình mà chúng ta đã không thể hiểu thấu thì làm sao chúng ta có thể hiểu được những gì thuộc thượng giới: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng?” (Kn 9:16). Chúng ta chỉ hiểu được những gì thuộc thượng giới khi có người từ thượng giới đến mạc khải cho chúng ta. Người đó là Đức Giêsu Kitô: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (x. Ga 1:18) Như vậy, để biết được thánh ý Thiên Chúa, chúng ta cần phải theo sát Chúa Giêsu, Đấng là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhờ Người mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Thiên Chúa (x. Kn 9:18).
Ý thứ hai mà lời Chúa mời gọi chúng ta suy gẫm trong tuần này là tư tưởng đón nhận nhau như anh chị em trong Chúa. Bài đọc 2 trình bày cho chúng ta mẫu gương cụ thể của Thánh Phaolô, người theo sát Chúa Giêsu để biết được thánh ý Ngài. Thánh nhân cho chúng ta thấy ngài đã già nua và đang bị tù vì Đức Giêsu Kitô (Plm 9b). Dù già nua và bị tù đày, thánh nhân không nghĩ cho chính mình, nhưng nghĩ đến hạnh phúc của người khác. Trong những lời đầy yêu thương, thánh nhân “khẩn xin” Philêmon đón nhận Ônêximô, người từng là nô lệ của mình: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi” (Plm 10,12). Với tâm tình của mình cho Philêmon, Thánh Phaolô muốn nhắn gởi cho ông ta [và cho chúng ta] rằng: Những ai được “tái sinh” trong Đức Kitô trở thành anh chị em với nhau. Giữa họ không còn tồn tại sự phân biệt về giai cấp, màu da, văn hoá, nam nữ, v.v. Giữa họ chỉ có tình “anh chị em trong Chúa” (Plm 16). Vì vậy, họ phải đón nhận nhau như đón nhận Chúa Giêsu. Tư tưởng này làm chúng ta không thể không chạnh lòng vì giữa chúng ta, những người tự xưng là “con cái Chúa” vẫn còn tồn tại biết bao nhiêu sự phân biệt và “chiến tranh”: Vẫn còn đó sự ganh tị và nói xấu, vẫn còn đó sự tranh đua và hiềm khích. Chúng ta vẫn làm gương mù gương xấu cho nhau và cho những anh chị em chưa biết Chúa. Những lời của Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đón nhận nhau trong tình yêu của Chúa để yêu thương và tha thứ cho nhau như Đức Kitô đã yêu thương và chết để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Đừng để tình yêu và hy tế thập giá của Chúa Giêsu trở nên vô hiệu trong cuộc đời chúng ta!
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày những điều kiện để trở thành môn đệ Chúa Giêsu. Đây là những điều kiện cụ thể để biết ý định và hiểu được ý muốn của Thiên Chúa. Đoạn trích này là đơn nhất thuộc về Thánh Luca. Nếu đoạn đi trước đoạn này (Lc 14:16-24) đặt trọng tâm vào tình yêu tuyệt đối trong việc chọn lựa của Thiên Chúa, đoạn trích này phát triển khía cạnh chính yếu của sự chọn lựa đó, đó là sự đáp trả với trọn con tim về phía những người môn đệ. Điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc “rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu” (Lc 14:25). Chi tiết này cho thấy có nhiều người “đi theo,” tức là muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu. Họ “đi cùng đường” với Chúa Giêsu ám chỉ hành trình lên Giêrusalem để hoàn thành thánh ý Thiên Chúa. Đây chính là chi tiết nối kết bài Tin Mừng với bài đọc 1: Chỉ những ai đi cùng đường với Chúa Giêsu mới biết được ý định Thiên Chúa và hiểu ước muốn của Ngài.
Nhìn thấy nhiều người đi cùng đường với mình, Chúa Giêsu liền trình bày cho họ những điều kiện cần thiết để làm môn đệ của Ngài. Một cách cụ thể, Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn: (1) “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26) và (2) “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:27). Điều kiện đầu tiên đòi buộc các môn đệ phải “ghét” [dứt bỏ] những người “trong gia đình” và cả mạng sống mình. Thuật ngữ này không có nghĩa nói đến cảm xúc ghét [ngược với cảm xúc yêu], nhưng ám chỉ một sự dấn thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Nói cách khác, để làm môn đệ của Chúa Giêsu, những người được gọi phải thuộc về Chúa Giêsu cách “hoàn toàn và trọn vẹn.” Các môn đệ không thể theo Chúa cách “nửa lòng” [hay nửa vời]. Họ phải theo Chúa với trọn con tim và con người của mình. Điều kiện thứ hai nói về việc những người theo Chúa Giêsu phải vác thập giá mình để đi theo. Chúng ta nhận ra ở đây hình bóng thập giá của Chúa Giêsu mà Ngài sẽ vác để hoàn thành hành trình lên Giêsusalem của Ngài. Điều kiện này chỉ ra cho chúng ta thấy ai trong chúng ta cũng có thập giá riêng của mình. Chúng ta phải vác nó. Không ai có thể vác thế chúng ta. Cuộc sống của người môn đệ là vác thập giá bước đi sau Chúa Giêsu. Trong hình ảnh này, chúng ta được nâng đỡ vì chúng ta không cô đơn khi vác thập giá: Chúng ta không bao giờ vác thập giá một mình. Chúng ta luôn vác với Chúa Giêsu.
Khi đưa ra các điều kiện cho các môn đệ, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ về những thách đố mà họ phải đối diện. Vì vậy, họ phải chuẩn bị chính mình cẩn thận bằng việc “đi theo Ngài” để học ở nơi Ngài cách thức vác thập giá. Chúa Giêsu dùng hai “dụ ngôn” để nhắc nhở các môn đệ về tầm quan trọng của việc suy gẫm [suy nghĩ] trước khi hành động (x. Lc 14: 28-32). Chúa Giêsu chỉ ra ba yếu tố quan trọng và cần thiết khi chúng ta muốn làm bất cứ điều gì [nhất là đi theo Ngài]: (1) ý hướng [mục đích tốt], (2) tính toán phí tổn [phương tiện để đạt mục đích], (3) xem khả năng của mình [trở nên khiêm nhường]. Nói cách cụ thể, những ai muốn theo Chúa Giêsu phải cân đo cái giá phải trả. Khi đã quyết định theo Chúa, chúng ta phải trung thành, phải hoàn thành sứ mệnh mà Ngài giao. Trong cuộc sống, hẳn chúng ta đã từng kinh nghiệm về hệ quả của những hành động thiếu suy nghĩ. Những hành động này thường làm tổn thương chính mình và người khác [nhất là những người thân].
Chúa Giêsu kết lời dạy của mình về điều kiện làm môn đệ của Ngài bằng khẳng định lại những gì Ngài đã nói, đó là “ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:33). Những “gì mình có” là những thứ mình sở hữu, không chỉ vật chất, nhưng còn những tương quan mà ngăn cản không cho phép chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa cách triệt để. Môn đệ là người từ bỏ hết mọi sự để có được Đấng tạo dựng mọi sự. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói cho người trẻ rằng: các con hãy mở cửa lòng cho Chúa Giêsu, chúng con sẽ không mất gì, nhưng chúng con sẽ có được hết mọi sự.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB