(Ds 21:4b-9; Pl 2:6-11; Ga 3:13-17)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ này được cử hành ở Rôma cuối thế kỷ thứ 7. Mục đích nguyên thuỷ của lễ này là để tưởng niệm việc chiếm lại được Thánh Giá Chúa Giêsu được lưu giữ tại Giêrusalem mà đã rơi vào tay những người Persians. Hoàng đế Heraclius chiếm lại được di vật này và mang về lại Giêrusalem vào ngày mồng 3 tháng 5 năm 629.
Y dược dùng hình ảnh con rắn treo lên để làm biểu tượng, để nói về ngành “cứu người và chữa người.” Chúng ta nhận ra hình ảnh này trong bài đọc 1. Sách Dân Số tường thuật cho chúng ta câu chuyện về dân Israel trong hành trình sa mạc. Hành trình mà trong đó họ cảm nhận được sự gần gũi của Thiên Chúa, nhưng cũng là hành trình mà trong đó họ đã “mất kiên nhẫn” với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Bài đọc 1 trình bày một trong những lần họ mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Môsê (x. Ds 21:5). Hậu quả của sự “vong ân” này là Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân (Ds 21:6). Chúng ta thấy trong đoạn trích của bài đọc 1 kiểu mẫu quen thuộc thường xuất hiện trong sách Thẩm Phán. Kiểu mẫu đó là: Dân chúng phạm tội [mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Môsê]; Chúa phạt [rắn độc đến hại dân]; dân hối cải [chúng tôi đã phạm tội]; Chúa giải thoát [treo con rắn lên một cây cột]. Chi tiết đáng chúng ta quan tâm ở đây là Thiên Chúa luôn cung cấp cho dân Ngài phương tiện chữa lành mỗi khi họ bị đánh phạt. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, dù con người biết bao nhiêu lần phản bội Ngài. Đây chính là ý nghĩa sâu xa mà chúng ta cử hành trong lễ kính ngày hôm nay. Ý nghĩa này được Thánh Gioan trình bày cách rõ ràng trong bối cảnh nói về sự sống đời đời hay sự tái sinh trong Nước và Thánh Thần.
Hình ảnh con rắn được “treo lên một cây cột” được Chúa Giêsu dùng lại trong bài Tin Mừng hôm nay để ám chỉ đến cái chết của Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Sự khác biệt ở đây là, những người “nhìn lên” con rắn trong sa mạc họ chỉ được chữa lành và được sống với sự sống tạm thời, vì họ phải chết. Nhưng những ai “tin vào Người” thì sẽ được sống muôn đời. Chủ đề chính ở đây là “tin.” Để có sự sống đời đời, nhìn lên Đấng được giương cao bằng con mắt thể lý thì chưa đủ, nhưng còn nhận ra Ngài là “Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13) với con mắt đức tin. Đây chính là điều Giáo Hội muốn chúng ta nhận ra khi cử hành Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta nhận ra Đấng bị treo trên đó là “Con Người,” Đấng đến mạc khải cho chúng ta những gì thuộc thượng giới và là Đấng mang lại cho chúng ta sự sống muôn đời.
Hơn nữa, nhìn lên Đấng bị treo trên thập giá, chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đã đạt đến đỉnh cao nhất: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15:13). Thật vậy, qua Đấng bị treo trên thập giá, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa của mình là ai. Ngài là Đấng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Như thế, Suy Tôn Thánh Giá không chỉ đơn giản suy tôn chính Chúa Giêsu, nhưng là suy tôn Thiên Chúa, Đấng “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thánh Giá [Đấng bị treo trên Thánh Giá] là đỉnh cao của mạc khải về Thiên Chúa. Nói cách khác, nếu muốn biết Thiên Chúa là ai, chúng ta phải nhìn lên Đấng bị treo trên thánh giá. Không có con đường nào khác ngoài con đường thập giá để biết Thiên Chúa là ai và cảm nghiệm tình yêu của Ngài.
Về phần mình, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô đặt trước mặt các tín hữu Philipphê tấm gương tự hạ của Chúa Giêsu để họ noi theo. Đây chính là bài ca Kenosis [tự hạ] của Chúa Giêsu mà đã gợi hứng cho biết bao nhiêu tâm hồn tìm thấy con đường nên thánh. Tâm điểm của con đường kenosis của Chúa Giêsu là sự trút bỏ vinh quang của mình để mặc lấy bản tính con người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6-7). Nhiều người trong chúng ta cần học ở Chúa Giêsu sự hoàn toàn từ bỏ. Tự bản chất, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trút bỏ vinh quang Thiên Chúa để trở nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Điều này cho thấy, Ngài hoàn toàn muốn sống liên đới hoặc có thể nói là ‘đồng hoá’ chính mình với chúng ta. Còn chúng ta, tự bản chất là con người mà lại muốn làm chúa: chúng ta muốn thay Chúa điều khiển thế giới, điều khiển người khác và nhất là điều khiển vận mệnh cuộc đời chính mính mà không cần đến Ngài. Một số người trong chúng ta khi đạt đến đỉnh cao vinh quang cuộc đời lại trở nên vô cảm trước những nỗi khốn khổ của anh chị em đồng loại. Để biết cảm thông và sống liên đới với những anh chị em kém may mắn hơn mình, chúng ta cần học ở Chúa Giêsu sự hạ mình: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:8-11). Chúa Giêsu hạ mình qua sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Chính trong sự hạ mình này mà Thiên Chúa được tôn vinh. Cuộc đời chúng ta cũng là một chuỗi ngày được mời gọi sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta không thể tìm ra và thực hành thánh ý Chúa nếu chúng ta không trở nên khiêm nhường và vâng phục. Chúng ta phải sẵn sàng chết đi con người tội lỗi của mình. Chỉ có như thế, Thiên Chúa mới được tôn vinh trong cuộc đời chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB