Suy Niệm Lời Chúa – Chúa Nhật XXXI Thường Niên – 2/11 Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời – Yêu Thương Những Người Tội Lỗi

(Kn 11:22 – 12:2; 2 Tx 1:11 – 2:2; Lc 19:1-10)

Tuần trước chúng ta nghe lời Chúa nói về sự khiêm nhường khi đến với Chúa trong đời sống cầu nguyện. Điều đó ám chỉ rằng bất kỳ ai trong chúng ta đặt Chúa làm trung tâm và hiến dâng trọn vẹn con người của mình cho Chúa, thì dẫu mình có như thế nào [là người tội lỗi như người thu thuế], Ngài cũng công chính hoá chúng ta. Nói cách khác, Chúa yêu thương và mời gọi mọi người làm môn đệ của Ngài. Đây chính là sứ điệp Tin Mừng Thánh Luca: Ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho hết mọi người. Cụ thể hơn, lời Chúa trong tuần này tiếp tục đề tài về người tội lỗi được nên công chính khi bỏ hết mọi sự đi theo Chúa Giêsu. Sự liên kết giữa lời Chúa tuần trước và tuần này tạo nên một thể thống nhất để nói về ơn gọi của người môn đệ Chúa Giêsu: là môn đệ khi cầu nguyện cũng như lúc làm công việc hằng ngày. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về thực tại ngày sống của mình. Nhiều người trong chúng ta rất “thánh thiện” trong nhà thờ, nhưng trong công việc hằng ngày, chúng ta lại hành xử như những con “sói dữ” cắn xé nhau. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta trong mọi giây phút, khi cầu nguyện cũng như lúc làm việc, khi ăn uống cũng như lúc nghỉ ngơi phải luôn gắn kết với Ngài. Có như thế, những hoa trái chúng ta sinh ra mới là những hoa trái của sự thánh thiện.

Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày cho chúng ta biết về tình yêu của Thiên Chúa dành cho hết mọi người, không phân biệt ai: “Lạy Chúa, trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:22-23). Những lời này mang lại cho chúng ta, những người tội lỗi, một sự an ủi và niềm vui tột cùng. Nhưng đồng thời cũng là một lời mời gọi, một thách đố để chúng ta ăn năn hối cải và học ở gương của Ngài để đối xử với anh chị em của mình cùng với một tình yêu như thế. Để làm được điều này, tác giả sách Khôn Ngoan mời gọi chúng ta suy gẫm trên hai thực tại: (1) Thiên Chúa luôn yêu thương những gì Ngài đã tạo dựng nên: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11:24); và (2) Ngài từ từ sửa dạy những ai sa ngã: “Quả vậy, lạy Đức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn 12:1-2). Hai thực tại này mời gọi chúng ta nhìn anh chị em mình với ánh mắt cảm thông và tha thứ. Nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa, tại sao chúng ta lại không yêu những người Ngài yêu? Ông bà ta thường nói: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ti họ hàng.” Một tình yêu đích thật là tình yêu không loại trừ những gì thuộc về người mình yêu. Vì vậy, tình yêu dành cho Chúa bao gồm tình yêu dành cho anh chị em mình. Đây là đặc tính thứ nhất của tình yêu. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói, ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh [chị] em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh [chị] em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Đặc tính thứ hai của tình yêu mà tác giả sách Khôn Ngoan đưa ra là “kiên nhẫn sửa dạy.” Tình yêu chân thật không bao giờ đồng ý với những sai phạm của người mình yêu, nhưng là biết sửa dạy cách kiên nhẫn. Chúng ta phải tránh thái độ “mì ăn liền” trong khi sửa dạy người khác. Đây chính là thái độ Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta khi chúng ta sai lỗi. Ngài kiên nhẫn sửa dạy chúng ta và cho chúng ta thời gian để thay đổi. Về phần mình, chúng ta cũng phải kiên nhẫn và dịu hiền với anh chị em mình. Đó chính là ơn gọi của người Kitô hữu mà Thánh Phaolô nói đến trong bài đọc 2.

Những lời của Thánh Phaolô cho các tín hữu Thessalônica mang đượm tình phụ tử dịu hiền: “Thưa anh em, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin” (2 Tx 1:11). Thánh nhân luôn cầu nguyện cho những người được Thiên Chúa trao phó cho ngài để họ sống trung thành và gắn bó với Thiên Chúa. Thánh Phaolô cho biết rằng, chỉ khi sống xứng đáng với ơn gọi của mình thì “danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2 Tx 1:12). Điều này làm chúng ta xét lại chính cuộc sống của mình đã nhiều lần chúng ta không sống xứng đáng với ơn gọi làm Kitô hữu [hay ơn gọi tu trì] của mình, và như thế chúng ta đã làm cho danh Chúa Giêsu bị châm biếm hay xem thường. Khi nhận ra mình không sống xứng đáng với ơn gọi của mình, chúng ta “đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:1) vì Chúa Giêsu đến để kêu gọi chúng ta bắt đầu lại trong từng giây phút như Ngài làm với ông Dakêu trong bài Tin Mừng hôm nay.

Câu chuyện được trích trong bài Tin Mừng hôm nay hoàn toàn riêng biệt của Thánh Luca. Danh xưng Giêrikhô trong câu chuyện gợi cho chúng ta nhớ về câu chuyện người Samaria nhân hậu (x. Lc 10:25-37) mà chúng ta đã nghe trong Chúa Nhật XV Thường Niên. Trong câu chuyện đó, người bị nạn đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, ngược với hành trình của Chúa Giêsu hôm nay là Ngài đi lên Giêrusalem và đi ngang qua Giêrikhô. Chi tiết này cho thấy những ai đi ngược hành trình với Chúa Giêsu, hay cụ thể hơn không sống đúng với Tin Mừng Chúa Giêsu mang đến, sẽ kết thúc trong đau thương và nước mắt. Chính trong hành trình lên Giêrusalem, hành trình mang ơn cứu độ mà câu chuyện về ơn gọi của Dakêu tìm thấy ý nghĩa của nó. Chúng ta cùng nhau phân tích những phản ứng khác nhau trong câu chuyện để rút ra bài học làm thế nào để sống xứng đáng với ơn gọi của mình.

Trước tiên là thái độ yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu biết Dakêu là một người tội lỗi, nhưng Ngài vẫn gọi ông: “Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 119:5). Chi tiết cần lưu ý ở đây là Chúa Giêsu “đến chỗ ấy” [đến chỗ của Dakêu]: Chính Chúa Giêsu đến với Dakêu, chứ không phải Dakêu đến với Chúa Giêsu. Điều này được làm sáng tỏ hơn qua việc Chúa Giêsu “đến nhà” Dakêu và trọ trong nhà ông để mang ơn cứu độ cho nhà ông: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:9-10). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta nghĩ rằng chúng ta đến với Chúa [mỗi ngày hoặc mỗi Chúa Nhật]. Nhưng trong thực tế, trước khi chúng ta đến với Chúa thì Ngài đã đến với chúng ta trong từng giây phút sống. Điều cần thiết là chúng ta có nhận ra điều đó không? Hơn nữa, qua việc vào trú ngụ trong nhà Dakêu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta học nơi Ngài để đón tiếp những người mà chúng ta muốn loại trừ khỏi cuộc đời mình.

Thứ đến là thái độ sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu và thay đổi cuộc sống của Dakêu. Dakêu là ai? “Ở đó có một người tên là Dakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có” (Lc 19:2). Tên Dakêu có nghĩa là “thanh sạch.” Trong hình ảnh của Dakêu, Thánh Luca đưa vào hai thế giới của mình [hai đề tài chính của Tin Mừng]: (1) Dakêu là một người thu thuế. Ông là một người “bị xem là tội lỗi” nhưng lại đại diện cho những người người đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cách quảng đại (x. Lc 3:12-13; 5:27-32; 7:29-30; 15:1-2; 18:9-14). (2) Dakêu là một người giàu có. Ông đại diện cho những người thấy rất khó để giải phóng mình khỏi nô lệ của cải vật chất (x. Lc 18:24-27). Để đáp lại lời mời gọi của Chúa và để giải phóng mình khỏi sự trói buộc của tiền bạc, Dakêu đã luôn khao khát và “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai” (Lc 19:3). Khi không xem thấy Chúa Giêsu vì điều kiện “thấp bé” của mình, ông không bỏ cuộc, nhưng lại sáng kiến tìm cách để gặp Chúa Giêsu và cuối cùng ông đã gặp được Người. Ở đây chúng ta thấy một sự trái nghịch xảy ra: Thay vì tìm cách xem thấy Chúa Giêsu nhưng không thấy được, thì Dakêu đã được Chúa Giêsu xem thấy. Điều làm cho ông được Chúa Giêsu xem thấy là sự khao khát được xem thấy Chúa Giêsu. Chính sự khao khát này đã không làm ông bỏ cuộc. Chi tiết này dạy chúng ta rằng: Khi chúng ta không thấy Chúa ở đâu, đừng bỏ cuộc. Chúng ta tiếp tục khao khát! Điều quan trọng không phải là “xem thấy Chúa,” mà là để Chúa “xem thấy mình.” Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể phản ứng được như Dakêu, đó là “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người” (Lc 19:6). Không những thế, chúng ta cũng có thể từ bỏ tất cả mọi sự để trọn vẹn thuộc về Chúa Giêsu như Dakêu: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19:8). Không ai đón Chúa Giêsu vào nhà [lòng] mình với lòng thành mà không thay đổi. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà ông với lòng thành và sự quảng đại, ông đã thay đổi và nhận được ơn cứu độ. Chúng ta cũng đón Chúa vào “nhà” chúng ta mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có thay đổi không? Nếu chưa thay đổi như Dakêu, hãy bắt đầu từ hôm nay, để chúng ta cũng được cứu độ.

Cuối cùng là thái độ xầm xì của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19:7). Không ít lần trong cuộc sống, chúng ta cũng xầm xì với nhau: Tại sao người này lại ở trong nhà thờ? Tại sao người kia lại được đón tiếp vào trong một hội đoàn? Tại sao con người “gian ác” như thế lại được Chúa yêu thương? Đây là thái độ giới hạn tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta muốn Chúa yêu theo cách của mình, đó là chỉ yêu những người mình thích hoặc những người thương mình. Đừng giới hạn tình yêu của Chúa, cũng đừng giới hạn tình yêu của mình. Một tình yêu chân thật và tuyệt mỹ là một tình yêu “yêu skẻ thù và yêu cho đến cùng.”

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng,SDB