(Is 40:1-11; Mt 18:12-14)
Bài đọc 1 hôm nay trình thuật cho chúng ta lời an ủi của Thiên Chúa cho dân của Ngài đang bị lưu đày qua miệng Ngôn Sứ Isaia. Để chuẩn bị cho ngày dân được giải phóng, ngôn sứ đưa ra những điều sau: (1) lấy đi những vật cản không làm cho vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện [“Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5)]; (2) nhận ra thân phận chóng tàn của chính mình và sự vĩnh cửu của lời Chúa [“Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững” (Is 40:6-8)]; (3) Đức Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân Ngài [“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:11)]. Những chi tiết này vừa thách đố vừa an ủi chúng ta: thách đố vì chúng ta phải nhận ra và loại bỏ đi những vật ngăn cách chúng ta với Chúa và với nhau, điều mà nhiều người trong chúng ta nhiều khi không muốn làm hoặc có muốn làm lại không đủ sức mạnh và can đảm để làm vì nó đòi hỏi chúng ta phải bỏ đi chính con người của mình; vừa an ủi vì dù thân phận chúng ta chóng tàn như hoa cỏ đồng nội mà Thiên Chúa lại đoái thương nhìn đến và chăm sóc như mục tử chăm sóc đàn chiên mình. Chúng ta cố gắng sống một cuộc sống xứng đáng với ơn Chúa.
Bài tin mừng hôm nay được hai thánh sử Matthêu (18:12-14) và Luca (15:3-7) thuật lại. Để hiểu hơn bài tin mừng hôm nay, chúng ta cần đặt nó vào trong bối cảnh lớn hơn, vào trong tương quan của những người thuộc về “gia đình của Chúa Giêsu,” đó là Giáo Hội. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta nghe việc một “anh/chị em” (con chiên) đi lạc, thì chủ chiên sẽ làm gì.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt nhỏ trong tường thuật của hai thánh sử. Trong tin mừng của Thánh Matthêu, trong bối cảnh sửa sai huynh đệ trong Giáo Hội, Chúa Giêsu hỏi ý kiến các môn đệ, là những người chủ chăn trong tương lai về việc họ sẽ làm gì khi một con chiên trong đàn đi lạc; còn trong tin mừng của Luca, trong bối cảnh “biện luận” cho việc đón tiếp những người tội lỗi và thu thuế trên hành trình lên Giêrusalem, thì Chúa Giêsu nói với các kinh sư và luật sĩ. Matthêu trình bày ngắn gọn thái độ cần có của người chủ chăn khi đối diện với con chiên lạc với bốn động từ: “bỏ chín mươi chín con,” “đi tìm,” “tìm thấy” và “vui mừng.” Còn trình thuật của Luca được viết theo kiểu của dụ ngôn đi trước (mất đồng xu) và dụ ngôn đi theo sau mất con (người con hoang đàng). Đây là ba dụ ngôn rất đặc trưng của Luca (chương 15). Thánh Sử Luca thêm vào một hành động: “bỏ chín mươi chín con,” “đi tìm,” “tìm thấy,” “vui mừng vác chiên lên vai,” và “gọi bạn hữu và láng giềng đến chia vui.”
Một chi tiết khác chúng ta cần để ý là câu kết của hai thánh sử có khác nhau: Matthêu kết như sau: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” Còn Luca kết: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Hai thánh sử bổ sung cho nhau để cho chúng ta có một bức tranh thật đẹp về mầu nhiệm của Thiên Chúa và của Giáo Hội. Matthêu nhấn mạnh đến thánh ý của Thiên Chúa là không muốn ai bị hư mất, nên khi có một con chiên đi lạc thì chủ chăn phải đi tìm về. Còn Luca lại nhấn mạnh đến niềm vui mà con chiên lạc quay về mang lại cho mọi người trên trời. Đây là một hành trình hai chiều: Thiên Chúa muốn (“không một ai trong kẻ bé mọn sẽ phải hư mất”) – con người đáp trả (“ăn năn sám hối”).
Chúng ta rút ra được điều gì cho cuộc sống từ lời Chúa hôm nay? Chúng ta có thể học được những thái độ sống sau:
Thứ nhất: Đừng vội lên án những “con chiên lạc,” nhưng có lòng bao dung, tha thứ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta dễ dàng chê trách, la mắng, nổi giận và loại trừ những “con chiên lạc,” những người mà chúng ta cho là không “thánh thiện.” Chúng ta cần phải học ở Chúa thái độ “chậm giận, nhưng giàu tình thương và lòng nhân ái” (Ex 34:6; Ps 103:8; Ps 145:8). Chúng ta cần phải đi ra khỏi chính mình, mở cánh của con tim của mình để sẳn sàng chấp nhận thiệt thòi và “nguy hiểm” để đi tìm và đón nhận người làm chúng ta tổn thương về lại trong trái tim của chúng ta. Niềm vui của chúng ta chính là “thực hiện thánh ý Thiên Chúa” và nhìn thấy người anh chị em của chúng ta trở lại. Việc tập trung vào việc thực hiện thánh ý Chúa và tìm hạnh phúc cho người khác chính là điều giúp chúng ta đón nhận người khác như Thiên Chúa đã đón nhận chúng ta. Chúng ta không nên tập trung nhiều vào vết thương mà người khác đã gây ra cho chúng ta. Vì nếu làm như thế, con tim của chúng ta sẽ không bao giờ được mở ra để đón nhận người khác.
Thứ hai: Khiêm nhường để cho mình được dẫn về. Điều đáng sợ là đôi khi trong đời sống, chúng ta đang đi lạc mà không biết mình đi lạc. Chúng ta cho rằng người khác mới đi lạc. Thật vậy, chúng ta thỉnh thoảng chứng kiến việc có người làm sai và sống sai, nhưng họ không nhận ra mình sai, là không bình thường. Họ luôn cho rằng, những người khác sai, những người khác là không bình thường. Sự tự cao và kiêu ngạo làm cho họ không nhận ra lỗi của mình. Họ thường đổ lỗi cho người khác hoặc tìm mọi lý do để biện minh cho những “cái sai” của mình. Tuy nhiên, điều đáng sợ hơn là biết mình “đi lạc,” mà ở lỳ trong tình trạng sai lạc đó, không để cho mình được đem về. Chúng ta cần phải khiêm nhường nhận ra rằng: chúng ta cần người khác giúp chúng ta trở về – chỉ người khoẻ mới có thể “cõng” hoặc “dìu” người bệnh, khi người bệnh không có khả năng tự mình di chuyển. Cuộc sống sẽ đẹp và ý nghĩa hơn khi chúng ta nâng đỡ nhau, nhất là trong những giây phút “đi lạc,” để cùng nhau thăng tiến trên con đường nên thánh.
Thứ ba: Đi ra khỏi mặc cảm tội lỗi để Chúa tìm thấy mình, đừng có trốn như Adam sau khi “đi lạc.” Chúng ta thường dấu mình, sống trong mặc cảm tội lỗi và như thế không cho Chúa cơ hôi để tìm thấy chúng ta. Chúng ta phải biết rằng Chúa Giêsu luôn đi tìm chúng ta, nhất là khi chúng ta đi lạc. Ngài đã chết trên Thập Giá để hoà giải chúng ta với Chúa Cha: Dầu tội con có đỏ như son, có đen như mực thì ta sẽ làm cho trắng như tuyết (Is 1:18). Cho nên chúng ta rất quý giá đối với Ngài. Trọn tình thương yêu của Ngài là dành cho chúng ta. Điều này không đủ để làm cho chúng ta cảm động và sẵn sàng hiến trao trọn vẹn cuộc sống của chúng ta cho Ngài sao?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB