(St 19:15-29; Mt 8:23-27)
Bài đọc 1 hôm nay cung cấp cho chúng ta chi tiết về lý do tại sao Ápraham “trả giá” với Chúa về việc không thiêu huỷ thành Xơđôm và Gômôra, đó là vì gia đình Lót cháu của ông đang ở đó. Gia đình ông Lót có 4 người: ông, vợ ông và hai người con gái [và hai con rể] (x. St 19: 15-16). Nhưng trong câu chuyện hôm nay, chúng ta thấy chỉ có 4 người được cứu [Lót, vợ ông, và hai người con gái] vì hai người con rể từ chối đi theo (x. St 19: 12-14). Chúng ta có thể rút ra những điểm sau trong bài đọc 1 để suy gẫm:
Hành động của hai người khách [hai sứ giả]: Hai vị này cố gắng đưa gia đình của Lót ra khỏi nơi sẽ bị phạt. Họ tìm mọi cách để hoàn thành sứ mệnh của mình: bằng lời nói [“Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt” (St 19:15)] và bằng hành động [Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành” (St 19:16)]. Chi tiết này chỉ cho chúng ta cách thức để giúp những ai đang sống trong sự nguy hiểm sẽ bị luận phạt. Chúng ta phải tìm mọi cách giúp họ. Chúng ta không chỉ nói suông, nhưng còn dùng hành động của mình để làm gương sáng.
Thái độ “chần chừ” và “bất tuân” của ông Lót và vợ ông: Chúng ta thấy, sứ giả nói ông “hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây” (St 19:17). Ông Lót và vợ dường như không tuân theo cả ba điều, mà chỉ muốn làm theo ý mình. Thay vì trốn lên “núi” thì Lót lại muốn vào một thành nhỏ. Trong Kinh Thánh, hình ảnh “núi” biểu trưng cho nơi Thiên Chúa hiện diện. Khi sứ giả nói “hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây” đồng nghĩa với “hãy tìm nương ẩn nơi Đức Chúa, Đấng ban sự sống.” Nhưng ông Lót muốn tìm nương ẩn nơi con người [nơi thành nhỏ Xôa] hơn là nơi Thiên Chúa. Đây cũng là thái độ chúng ta thường có khi gặp hoạn nạn trong cuộc sống. Chúng ta thường cậy dựa vào sức mình hơn là tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Sự công chính của Ápraham đã cứu Lót: Câu chuyện kết thúc với việc Đức Chúa huỷ diệt Xơđôm và Gômôra như Ngài đã phán. Nhưng Ngài “đã nhớ đến ông Ápraham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở” (St 19:29). Qua những lời này, chúng ta thấy Đức Chúa cứu ông Lót và gia đình ông không phải chết vì công trạng của họ, nhưng vì sự công chính và tình nghĩa giữa Ápraham với Đức Chúa. Chúng ta nghe trong Kinh Thánh rằng: Đức Chúa lắng nghe những người công chính (x. Cn 15:29). Chi tiết này mời gọi chúng ta sống đời sống nghĩa thiết với Thiên Chúa. Chỉ có đời sống như thế, Đức Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho những người cần đến.
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp sau đoạn Chúa Giêsu dạy các môn đệ về việc theo Ngài. Chúng ta cũng tìm thấy đoạn tường thuật này trong Tin Mừng Thánh Máccô (4:35-41). Trong Tin Mừng Thánh Máccô, đoạn tường thuật này được đặt ngay sau việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để giảng dạy. Một cách cụ thể hơn, ngay sau khi nêu lý do tại sao Chúa Giêsu sử dụng dụ ngôn để giảng dạy, Thánh Máccô cho biết Chúa Giêsu giục các môn đệ sang bờ bên kia. Trong bối cảnh đó, để hiểu việc theo Chúa Giêsu, các môn đệ phải được Chúa Giêsu giải thích khi “ở một mình với Ngài.” Còn Thánh Mátthêu đặt bài Tin Mừng này trong bối cảnh theo Chúa Giêsu. Điều này được trình bày ngay câu đầu tiên của đoạn trích: “Khi ấy, Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người” (Mt 8:23). Theo Thánh Mátthêu, việc theo Chúa Giêsu không đơn giản vì đó là một hành trình vượt biển hồ. Các môn đệ hiểu điều này vì nhiều người trong các ông là dân đánh cá. Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, biển hồ là hình ảnh của sự dữ. Theo cách nhìn này, việc theo Chúa là hành trình chiến đấu với sự dữ.
Theo các học giả Kinh Thánh, đoạn Tin Mừng hôm nay có thể bị ảnh hưởng bởi Thánh Vịnh 107:23-32 và 104:5-9. Nhưng điều này cũng không chắc chắn. Điều chắc chắn là Thánh Mátthêu sử dụng cốt chuyện từ Thánh Máccô. Ngài viết lại câu chuyện nhằm mục đích hướng dẫn cuộc sống Giáo Hội sau biến cố phục sinh. Khi so sánh hai bản văn, chúng ta thấy Thánh Mátthêu luôn đặt Chúa Giêsu ở trung tâm. Ngài luôn được tôn vinh. Chúng ta cùng nhau phân tích bốn câu còn lại của Tin Mừng (câu 24-27) để rút ra những điều đáng suy gẫm cho ngày sống.
Hành trình vượt biển của các môn đệ đang an bình thì “bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ” (Mt 8:24). Theo truyền thống, chiếc thuyền “lênh đênh trên biển bị sóng ập vào” là hình ảnh Giáo Hội đang chiến đấu với bắt bớ. Có hai chi tiết trong câu trên cần chúng ta lưu ý, đó là “biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền” và “Chúa Giêsu vẫn ngủ.” Điều này ngụ ý nói gì với chúng ta? Điều này có nghĩa là cuộc sống theo Chúa chắc chắn sẽ gặp sóng gió ập vào chiếc thuyền cuộc đời. Nhưng một điều chắc chắn là Chúa Giêsu không bỏ rơi chúng ta trong lúc sóng gió. Ngài vẫn hiện diện ở đó. Ngài chỉ “nghỉ ngơi/ngủ” để chúng ta bước đi một mình với ánh mắt và con tim luôn hướng về Ngài. Đừng để sóng gió cuộc đời làm chúng ta quên mất sự hiện diện đầy âm thầm của Thiên Chúa trong con thuyền cuộc đời của mình.
Khi thấy mình không thể chiến đấu với sóng gió, các môn đệ đánh thức Chúa Giêsu và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” (Mt 8:25). Lời cầu xin này của các môn đệ là lời cầu nguyện của Giáo Hội đang bị đe doạ qua muôn thế hệ. Đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của một Giáo Hội được miêu tả với đặc tính mỏng dòn, yếu đuối luôn bị sóng đánh chao đảo. Cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng thế, nếu không có Chúa, chúng ta cũng sẽ bị sóng gió nhận chìm. Hãy luôn nhớ lời Chúa Giêsu: “Không có Thầy, anh [chị] em sẽ không làm được gì” (Ga 15:5).
Đứng trước sự sợ hãi của các môn đệ, Chúa Giêsu “trách yêu” họ: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin!” (Mt 8:26). Mátthêu thay từ “không có lòng tin” của Máccô thành “kém lòng tin.” “Kém lòng tin” giả định họ có lòng tin, nhưng là lòng tin trở nên yếu kém đến nỗi không dám hành động. Theo các học giả Kinh Thánh, chi tiết này ám chỉ đến niềm tin của thế hệ thứ 2 và thứ 3 sau các Tông Đồ. Họ kém lòng tin vì họ quên mất Chúa Giêsu đang hiện diện trong thuyền. Dù trách các môn đệ, Chúa Giêsu vẫn thực hiện điều các ông cầu xin: “Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.” Hành động Chúa Giêsu ra lệnh cho biển yên gió lặng ám chỉ việc Ngài có quyền trên các quy luật tự nhiên cũng như trên mãnh lực của sự dữ đang tìm cách nhấn chìm con người.
Đứng trước việc Chúa Giêsu làm, “người ta ngạc nhiên và nói: ‘Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?’” (Mt 8:27). Một chi tiết ít được chúng ta để ý là việc Thánh Mátthêu sử dụng từ “người ta.” Như chúng ta biết, trong thuyền chỉ có Chúa Giêsu với các môn đệ. Đúng ra, Thánh Mátthêu phải viết, “các môn đệ ngạc nhiên và nói.” Nhưng ngài không viết như thế mà viết, “người ta ngạc nhiên và nói.” Khi dùng chữ “người ta,” Thánh Mátthêu muốn nói đến mọi thành viên sẽ gia nhập Giáo Hội sau này. Qua chi tiết này, thánh sử muốn thính giả đặt mình vào trong chiếc thuyền của Giáo Hội đang hành trình trên biển với Chúa Giêsu, nhìn thấy những việc Ngài làm để giải thoát mọi người trên thuyền mà tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta không hành trình đơn độc, nhưng luôn sống liên kết với mọi người trong Giáo Hội. Hãy trở nên bén nhạy với những việc Chúa làm cho chúng ta và người khác mà tôn vinh danh Ngài mãi muôn đời.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB