(Kh 11,4-12; Lc 20:27-40)
Thánh Gioan trong bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta thị kiến về các nhân chứng của Thiên Chúa, đó là “hai cây ôliu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất” (Kh 11:4). Hai nhân chứng này làm chứng về việc những người được Thiên Chúa tuyển chọn sẽ không bị làm hại. Qua mọi thời, Thiên Chúa luôn gìn giữ những kẻ Ngài đã tuyển chọn. Ngài ban cho họ quyền năng của Ngài để làm phép lạ và hoàn thành nhiệm vụ được trao ban (x. Kh 11:5-7). Khi những người được tuyển chọn chết đi, những người sống trên mặt đất sẽ hân hoan vì các ngài. Họ ăn mừng vì các ngài đã chết. Tuy nhiên, lời chứng của các ngài sẽ lưu truyền. Các ngài sẽ đến trong vinh quang để làm chứng chống lại những kẻ thù địch. Mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Ngài. Liệu chúng ta có đủ can đảm để làm chứng dù phải chịu nhiều đau khổ và bách hại không?
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta vừa được nghe trong Chúa Nhật tuần trước [Chúa Nhật XXXII TN]. Nội dung chính của bài Tin Mừng là cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với nhóm Xađốc về việc người chết sống lại [hay sự phục sinh]. Chúng ta cần lưu ý rằng, bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh của những lời giảng trong Đền Thờ của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nói, Đền Thờ là nơi những người Xađốc có vị trí quan trọng trong việc giảng dạy. Một trong những điều họ giảng dạy, được đưa ra tranh luận với Chúa Giêsu, là việc không có sự sống lại. Như chúng ta biết, nhóm Xađốc chỉ tin vào Torah được viết ra, chúng ta gọi là Ngũ Kinh. Họ dựa trên Luật được tìm thấy trong Ngũ Kinh để chứng minh rằng sự sống lại là một điều không thể xảy ra như câu chuyện họ dùng để minh hoạ: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc 20:28-33). Họ dựa vào Levirate Luật được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật (25:5) để áp dụng vào một câu chuyện mang tính hư cấu nhằm đặt Chúa Giêsu vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan để cuối cùng phải chấp nhận giáo huấn của họ là không có sự sống lại.
Để trả lời cho vấn nạn trên, Chúa Giêsu đi theo hai bước: Bước thứ nhất, Ngài đưa ra sự khác biệt giữa sự sống đời này và đời sau. Theo Ngài, “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20:34-36). Trong những lời này, Chúa Giêsu cho biết, chỉ có những người sống sự sống đời này mới cần đến việc sinh con đẻ cái hầu tiếp tục miêu duệ của mình khi họ chết. Điều này nói lên ước mơ trường tồn hay khát vọng sống vĩnh cửu của con người. Họ muốn sống mãi trong con cháu khi họ đã từ giã cõi đời. Còn những người sống lại từ cõi chết, vì không chết nữa nên họ không cần phải có con cháu để được nhớ đến và sống mãi. Bước thứ hai, Chúa Giêsu sử dụng biến cố Thiên Chúa hiện ra với Môsê trong bụi gai [dựa trên Ngũ Kinh], để chứng minh cho vấn đề kẻ chết trỗi dậy: “Thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20:37-38). Những lời này cho chúng ta thấy trong Thiên Chúa, mọi khoảnh khắc đều là hiện tại. Ngài là Thiên Chúa của những gì hiện hữu, những gì đang sống. Trong Ngài không có sự chết, vì Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài chính là sự sống. Khi chúng ta sống trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ không phải chết. Điều chúng ta đang nói ở đây ám chỉ đến đời sống thiêng liêng. Có nhiều người trong chúng ta “sống mà như đã chết.” Họ là những người sống không yêu thương, không cảm thông và không tha thứ. Trái tim và thái độ sống của họ chỉ có sự chua chát, ghen tương và giận hờn. Còn những người sống trong Chúa, họ luôn hạnh phúc và có được niềm vui sâu kín trong tâm hồn dù phải đối diện với nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Sống vui hay sống buốn, sống trong Chúa hay trong sự chết, đó là sự chọn lựa của chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB