(Lv 19:1-2.11-18; Mt 25:31-46)
Ai trong chúng ta cũng muốn sống thánh thiện hay đúng hơn là muốn nên thánh. Và chúng ta thường thắc mắc và tự hỏi: Thánh thiện là gì? Chúng ta thường quan niệm thánh thiện là không phạm tội và sự thánh thiện chỉ dành cho một số ít người “được tuyển chọn.” Tuy nhiên, thánh thiện không phải là “không phạm tội” vì ai trong chúng ta cũng mang trong mình thân phận yếu đuối mỏng manh. Thánh thiện là sự ăn năn sám hối không ngừng.
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta về đề tài thánh thiện và cách thức để trở nên thánh thiện. Trong bài đọc 1, “Đức Chúa phán với ông Môsê rằng: ‘Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh’” (Lv 19:1-2). Chúng ta tìm thấy trong câu này điều mà chúng ta phải luôn ý thức: thánh thiện là cho hết mọi người. Đây là mệnh lệnh của Đức Chúa. Ngài muốn tất cả mọi người nên thánh chứ không chỉ một số ít người. Để sống thánh thiện, bài đọc 1 đưa ra danh sách những điều “không được phép làm.”
Điểm đầu tiên chúng ta lưu ý là điệp khúc “Ta là Đức Chúa” (Lv 19:12,14,16,18). Điệp khúc này được lặp lại sau mỗi lần kết thúc một chuỗi những hành động chúng ta không được phép làm. Điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là: Động lực để ta tránh những điều làm chúng ta không đạt đến sự thánh thiện không phải là vì “sợ phạm tội,” nhưng vì “muốn được nên giống Đức Chúa, là Đấng Thánh” (x. Lv 19:2). Điều đáng buồn là nhiều người Kitô hữu [ngay cả những người được thánh hiến] xem con đường nên thánh, nhất là đời sống luân lý, mà Thiên Chúa đòi hỏi [hay Giáo Hội dạy] là gánh nặng của những điều “không được làm.” Họ quên rằng, những điều “không được làm” chỉ là hệ quả của chọn lựa nên thánh như Đức Chúa là Đấng Thánh. Giống như một người nam khi chọn một người nữ làm vợ của mình, thì hệ quả là người nam đó không còn được phép làm những điều lỗi phạm đến tình yêu dành cho vợ của mình. Việc không được phép làm những điều lỗi phạm đến đời sống hôn nhân chỉ là hệ quả của “chọn lựa người kia làm vợ.” Nhìn từ khía cạnh này, những việc “không được làm” mà sách Lêvi trình bày cho chúng ta chỉ là hệ quả của “chọn lựa sống thánh” như Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta có thể nhóm “những điều không được phép làm” trong bài đọc 1 thành bốn nhóm [được chia cách bởi điệp khúc “Ta là Đức Chúa”]:
Nhóm thứ nhất trình bày những điều chúng ta không được phép làm trong tương quan với những người thân, những người “đồng quê hương” của mình: “Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình. Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là các ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19:11-12). Trong nhóm này, tác giả nhấn mạnh đến việc “sống thành thật” [không nói dối, không lừa gạt, không thề gian] với những người thân của chúng ta. Sống thật với những người “biết chúng ta” là một thách đố lớn! Hãy sống thật như Chúa Giêsu mời gọi: “Có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm lời đặt chuyện là do ma quỷ” (Mt 5:37).
Nhóm thứ hai mở rộng ra đến đồng loại: “Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi” (Lv 19:13-14). Nhóm này nhấn mạnh đến đức công bình và bác ái, tức là, chúng ta phải trả cho người khác những gì thuộc về họ và nhất là không tìm cách để hãm hại người khác. Thật vậy, khi gặp những người đồng loại, không cùng tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, sở thích với mình, chúng ta thường có thái độ “bất công,” hay đúng hơn là không đối xử với họ như họ đáng được đối xử. Nhóm thứ hai này mời gọi chúng ta hãy đối xử với hết mọi người như nhau không phân biệt, vì tất cả mọi người là con cùng một Cha ở trên trời và tất cả là anh chị em của nhau.
Nhóm thứ ba nói đến những điều mà những người có trách nhiệm trên người khác phải lưu ý: “Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết” (Lv 19:15-16). Những người có quyền thường có xu hướng đối xử thiên vị: kiêng nể và nhẹ tay với những người thân và có địa vị và vu khống cho những người cô thế cô thân. Những người này được mời gọi sống liêm khiết và không thiên vị. Họ phải có một tình yêu chan hoà dành cho mọi người như nhau.
Nhóm thứ tư là bản tóm tắt của tất cả điều được trình bày trên: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19:17-18). Câu tóm tắt được tìm thấy trong câu cuối cùng: câu này là đỉnh cao của luật yêu thương trong Cựu Ước. Chi tiết làm chúng ta không ngạc nhiên ở đây là: sau một danh sách dài của những “mệnh lệnh tiêu cực” (không được làm) là một “mệnh lệnh tích cực” (điều phải làm), đó là hãy yêu người khác như chính mình. Điều này đưa chúng ta về với điều chúng ta đã trình bày ở trên: tất cả những điều “không được phép làm” chỉ là hệ quả của chọn lựa sống thánh của chúng ta. Trong trường hợp này, danh sách không được làm trên chỉ là hệ quả của chọn lựa “yêu đồng loại như chính mình.” Như vậy, đừng để ý đến những điều không được phép làm, những điều phải từ bỏ, nhưng hãy tìm niềm vui nơi chọn lựa “sống thánh, sống yêu thương, sống tha thứ” của mình, thì những điều không được phép làm kia sẽ trở thành nhẹ nhàng và êm ái.
Về phần mình, Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những việc làm rất cụ thể để nên thánh. Theo Ngài, chính những công việc tốt và đơn giản hằng ngày mà chúng ta làm cho người khác là tiêu chuẩn để đo lường sự thánh thiện và cũng là điều mà qua đó Thiên Chúa sẽ xét sử chúng ta vào ngày sau hết. Theo các học giả Kinh Thánh, đoạn Tin Mừng này là kiệt tác đỉnh cao và cũng là bài giảng quan trọng cuối cùng trong cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Chúng ta chỉ tìm thấy đoạn Tin Mừng này trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu. Chúng ta cũng tìm thấy trong đoạn Tin Mừng này sự tương phản giữa phúc và họa: nếu làm thì được phúc, không làm thì bị hoạ.
Những công việc nào Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện để được vào hưởng sự sống đời đời, để nên thánh? Đó là: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:35-37). Đây là sáu trong bảy công việc “thương xác” [corporeal works of mercy] mà truyền thống của Giáo Hội đề ra cho chúng ta thực hiện. Tất cả những công việc này hoàn toàn nhắm đến việc đáp ứng nhu cầu thể lý [thân xác] của người khác. Như vậy, sự thánh thiện không chỉ dành riêng cho linh hồn, mà cho cả toàn bộ con người, trong đó thân xác là một phần quan trọng. Đừng đối xử với người khác như “hồn không xác” hay đúng hơn là “thuần thiêng liêng.” Hãy đối xử với họ như những nhân vị có thân xác “sẽ được sống lại trong ngày sau hết.” Hãy chăm sóc nhu cầu sức khoẻ [thể lý] cho người khác.
Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý là việc những người công chính và những người bị chúc dữ cùng hỏi lại “Đức Vua” về những việc mình làm và không làm: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn [không cho ăn], khát mà cho uống [không cho uống]; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước [không tiếp rước]; hoặc trần truồng mà cho mặc [không cho mặc]? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu [không đến hỏi han]?” (Mt 25:37-39//44-45). Chúng ta thấy rõ ràng ở đây họ chỉ đơn giản làm việc tốt hoặc không làm việc tốt mà không ý thức rằng họ làm cho Chúa Giêsu. Đây chính là điều làm chúng ta được an ủi, nhưng cũng là điều làm chúng ta đáng phải lo sợ vì những việc tốt chúng ta làm hoặc không làm cho người khác, dù không phải vì danh Chúa Giêsu, sẽ trở thành điều để chúng ta được Đức Vua khen thưởng hay luận phạt. Hãy làm điều tốt mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người.
Điểm cuối cùng chúng ta cùng nhau suy gẫm là việc Chúa Giêsu đồng hoá chính mình với những người cần chúng ta giúp đỡ: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế [không làm như thế] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm [không làm] cho chính Ta vậy” (Mt 25:40//45). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (trong thông điệp Redemptor Hominis [“Đấng Cứu Chuộc Con Người”]) dạy chúng ta rằng: Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã đồng hoá chính mình với mỗi con người trong mọi không gian và thời gian. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta hiểu lý do tại sao Chúa Giêsu đồng hoá việc phục vụ người túng thiếu là diễn tả tình yêu dành cho Ngài. Như vậy, điều quan trọng là liệu chúng ta có nhận ra Ngài trong những người cần đến tình thương và sự giúp đở của chúng ta không?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng,SDB