(Đn 13:1-9.15-17.19-30.33-62; Ga 8:12-20)
Mỗi khi gặp khó khăn và không được ai hiểu, chúng ta có chạy đến với Chúa không? Bài đọc 1 hôm nay kể cho chúng ta nghe về câu chuyện rất cảm động của bà Susana, một người không chỉ đẹp bên ngoài, nhưng còn đẹp cả bên trong: “bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa” (Đn 13:2). Câu chuyện của bà là câu chuyện của những người bị tố cáo cách bất công và không thể biện minh cho chính mình. Nhưng Thiên Chúa thấu hiểu tâm can con người từng gang tấc. Ngài sẽ là người minh oan cho những người bị tố cáo cách bất công. Bà Susana dạy chúng ta những điều sau đây khi đối diện với những tố cáo bất công hoặc bị hiểu lầm trong đời sống gia đình hay cộng đoàn: (1) thinh lặng; (2) sợ làm mất lòng Thiên Chúa hơn là sợ làm mất lòng người đời; (3) tin cậy vào Thiên Chúa, Đấng sẽ minh oan cho mình. Từ gương sáng của bà Susana, chúng ta có thể rút ra hai điều sau để suy gẫm:
Thứ nhất, thà làm mất lòng người đời hơn là làm mất lòng Chúa: “Bà Susanna thở dài não nuột và nói: ‘Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!’ (Đn 13:22-23). Nhiều lần trong cuộc sống, vì tính cả nể nên chúng ta sợ làm mất lòng người khác, nhất là những người mà chúng ta mang ơn, hơn là sợ làm mất lòng Thiên Chúa. Gương sáng của bà Susana nhắc nhở chúng ta về việc phải sợ ai: sợ người chỉ giết chết thân xác chúng ta hay Đấng có thể ném cả hồn và xác vào lửa không bao giờ tắt.
Thứ hai, hãy thinh lặng và mở lòng ra với Thiên Chúa, Đấng sẽ minh oan cho chúng ta: “Nhưng bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: ‘Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con’ (Đn 13:42-43). Chúng ta thấy trong bài đọc 1, Thiên Chúa đã nghe lời van xin của bà Susana và sai Đanien đến minh oan cho bà. Chúng ta cũng sẽ thấy Thiên Chúa dùng mọi hình thức khác nhau để giải thoát những tâm hồn tin cậy vào Ngài. Hãy giữ thái độ bình thản và trông cậy vào Thiên Chúa dù chung quanh bạn không còn ai hiểu bạn.
Lời của Thánh Vịnh Đáp Ca hôm nay diễn tả đúng tâm tình của bà Susana và của mỗi người chúng ta khi phải đi trong bóng đen của những xét đoán bất công từ người khác: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” Dù đi trong đêm đen của cuộc đời, con không còn sợ nguy khốn vì có Chúa là ánh sáng soi bước chân con. Đây chính là đề tài mà Thánh Gioan trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay: “Đức Giêsu nói với người Pharisêu rằng: ‘Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống’” (Ga 8:12). Chỉ những người có Chúa Giêsu là ánh sáng mới có thể nhìn thấy và đọc được ý nghĩa của ơn cứu độ trong bóng đêm đen của cuộc đời mình.
Sợi chỉ nối kết hai bài đọc hôm nay là từ “làm chứng.” Trong bài đọc 1, chúng ta thấy hai vị trưởng lão làm chứng, và chứng của họ là chứng gian. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với người Pharisêu về việc làm chứng của Ngài. Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta hai kiểu xét đoán: (1) kiểu người phàm thì dựa trên lời chứng của người phàm, và lời chứng của người phàm thì giới hạn vì những gì họ có được chỉ dựa vào những quan sát bên ngoài. Vì dựa trên kiểu xét đoán này mà người Do Thái chỉ biết nguồn gốc “con người” của Chúa Giêsu: “các ông không biết tôi từ đâu tới và đi đâu” (Ga 8:14); (2) kiểu Thiên Chúa thì dựa trên lời chứng của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can con người từng gang tấc: “Các ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8:15-16). Câu, “phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi,” gợi lên trong chúng ta hai thái độ khác nhau: một mặt, chúng ta thấy an lòng vì Chúa Giêsu nói là Ngài không xét đoán ai. Mặt khác, chúng ta thấy mình được mời gọi sống tận căn vì Chúa Giêsu xét đoán thì luôn luôn đúng vì Ngài biết tất cả mọi sự. Những người sống trong ánh sáng của Chúa Giêsu thì không sợ bị xét đoán. Nói cách khác, những người sống đúng với căn tính của mình là Kitô hữu hay tu sĩ sẽ không sợ bị xét đoán.
Hình ảnh thứ hai của bài đọc 1 mà chúng ta thấy trong bài Tin Mừng là: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8:17). Trong bài đọc 1, dân chúng dựa trên lời chứng của hai vị trưởng lão để kết án Susana. Chúa Giêsu cũng dựa theo Lề Luật. Ngài cũng có hai nhân chứng để làm chứng về nguồn gốc của Ngài: “Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi” (Ga 8:18). Chính Ngài làm chứng và Chúa Cha cũng làm chứng về Ngài là Ngài được Chúa Cha sai đến. Trong bài đọc 1, hai vị trưởng lão đưa ra những chi tiết khác nhau trong lời chứng của họ, vì họ “là hai” mà “không phải là một’; còn lời chứng của Chúa Giêsu và Chúa Cha không có sự khác biệt vì các Ngài là một. Lời khẳng định “là một” với Chúa Cha này của Chúa Giêsu đã khiến cho người Do Thái chống đối Ngài.
Thật vậy, cuộc tranh luận với người Do Thái càng trở nên “gây cấn” hơn khi Chúa Giêsu bắt đầu nói đến sự “bất khả phân ly” giữa Ngài và Chúa Cha khi Ngài trả lời người Do Thái về Chúa Cha : “Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi” (Ga 8:19). Điều này lại rất khác với thực tế trong cuộc sống. Nhiều khi chúng ta biết người con, nhưng không biết người cha và ngược lại. Còn trong trường hợp Chúa Giêsu và Cha Ngài thì khác: ai biết Chúa Cha là biết Ngài, vì Chúa Cha và Ngài là một. Điều này cho chúng ta thấy rằng: ở đâu có tình yêu, ở đó có hiệp nhất; còn ở đâu không có tình yêu mà chỉ là sự ghen ghét và hận thù, ở đó có chia rẽ. Hay nói cách khác, gia đình hay cộng đoàn nào có Thiên Chúa thì có hiệp nhất; còn gia đình hay cộng đoàn nào không có chỗ cho Thiên Chúa thì sẽ nếm mùi chia rẽ và ghen ghét.
Lm. Anton Nguyễn Ngọc Dũng, SDB