Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Hai sau Chúa Nhật VI Phục Sinh – Làm Chứng Cho Chúa Giêsu Trong Khi Bị Bách Hại

(Cv 16:11-15; Ga 15:26 – 16:4a)

Bài đọc 1 tiếp tục trình thuật cho chúng ta về hành trình rao giảng của Phaolô. Điểm đáng để chúng ta lưu ý là việc giảng dạy của các Tông Đồ thường xảy ra trong ngày sabát, đó là ngày dành riêng cho Thiên Chúa của người Do Thái. Ngày sabát là ngày dành riêng để cầu nguyện. Trong bối cảnh đó, câu chuyện của bà Lyđia đón nhận Tin Mừng được nói đến: “Ngày sabát, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó. Có một bà tên là Lyđia, quê ở Thyatira, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa, bà mời chúng tôi: “Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi.” Và bà ép chúng tôi phải nhận lời” (Cv 16:13-15). Những lời này cho chúng ta thấy việc bà Lyđia đón nhận đức tin xảy ra trong “nơi cầu nguyện” cho một người “tôn thờ Thiên Chúa.” Nói cách khác, để đón nhận đức tin hay để đức tin được triển nở, chúng ta cần hai điều kiện: Sống đời sống cầu nguyện thâm sâu và có lòng kính sợ [tôn thờ] Thiên Chúa. Đức tin và cầu nguyện liên kết với nhau cách chặt chẽ không tách rời. Sau khi đón nhận đức tin, bà Lyđia đã tỏ lòng quảng đại với các Tông Đồ bằng cách “nài ép” các Tông Đồ đến trú ngụ trong nhà của bà. Như chúng ta biết lòng quảng đại là một trong những đề tài quan trọng trong sách Công Vụ Tông Đồ [và Tin Mừng Thánh Luca]. Khi nói đến lòng quảng đại của bà Lyđia với các Tồng Đồ, tác giả sách Công Vụ Tông Đồ nhắc nhở chúng ta rằng: Những người mở lòng đón nhận đức tin, đón nhận Chúa Giêsu [Thiên Chúa] sẽ đồng thời mở lòng đón nhận những người thuộc về Ngài, những người được Ngài sai đến, những người được Ngài yêu thương. Chúng ta không thể mở lòng cho Chúa mà không mở lòng cho anh chị em mình – yêu Chúa và yêu anh chị em mình luôn đi đôi với nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: Phần 1 (Ga 15:26-27) trình bày cho chúng ta biết Đấng Bảo Trợ chính là chứng nhân cho Chúa Giêsu và phần 2 (Ga 16:1-4a) nói về việc các môn đệ của Chúa Giêsu sẽ bị bắt bớ. Ca hai phần đều xoay quanh đời sống làm chứng của các môn đệ với sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ để đối diện với những bách hại. Trong phần 1, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết rằng Đấng Bảo Trợ sẽ cùng làm chứng với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” Khi nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chứng tá của các môn đệ trong thời gian bị bách hại, chúng ta cũng tìm thấy những bản văn tương đồng trong Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mc 13:9,11; Mt 10:20). Trong Tin Mừng Thánh Gioan, những câu trên gắn kết “lời chứng” của Đấng Bảo Trợ với “lời chứng” mà các môn đệ phải nói về Chúa Giêsu. Theo các học giả Kinh Thánh, nếu trình thuật này được viết lên như phần 2 của trình thuật đi trước, thì “lời chứng” của các môn đệ về Chúa Giêsu có thể ám chỉ việc “sinh nhiều hoa trái” [trong đời sống yêu thương]. Tuy nhiên, điều chúng ta suy gẫm ở đây là việc chúng ta phải ý thức rằng chúng ta luôn làm chứng cho Chúa Giêsu cùng với Đấng Bảo Trợ. Trong đời sống chứng nhân, chúng ta không hoạt động một mình. Sống trong thế giới bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, nhiều người trong chúng ta chỉ tập trung vào chính mình, quy mọi sự cho mình ngay cả những công việc tự bản chất chỉ mang vinh quang cho Thiên Chúa và phần rỗi cho anh chị em. Chúng ta cần nhắc nhở chính mình là chúng ta luôn sống trong tương quan với Thiên Chúa, với anh chị em và với vũ trụ. Tất cả những gì chúng ta làm đều bắt đầu và kết thúc với ơn Chúa. Chúng ta không có gì để tự phụ!

Trong 14:29 [“Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin”], chúng ta đọc thấy lời Chúa Giêsu như một khẳng định đức tin của các môn đệ trước sự kiện Chúa Giêsu chịu đóng đinh, thì câu 16:1nói về khả thể của việc vấp ngã vì thập giá Chúa Giêsu: “Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã” (Ga 16:1). Thuật ngữ “vấp ngã” được sử dụng trong 6:61 [“Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: ‘Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?’”] để diễn tả những người môn đệ “vấp ngã” vì những lời Chúa Giêsu nói về bánh hằng sống được sử dụng ở đây để nói lên mối nguy hiểm mà trình thuật này muốn chỉ ra, đó là những cuộc bách hại tàn bạo sẽ làm cho nhiều người từ chối tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta không còn sống trong những cuộc bách hại như thời của các tín hữu đầu tiên, nhưng khả thể vấp ngã của người môn đệ vẫn được chúng ta cảm nghiệm trong đời sống hằng ngày. Một cách cụ thể, nhiều người trong chúng ta vấp ngã ngay cả khi chúng ta làm việc vì danh Chúa, đó là khi chúng ta tỏ thái độ ghen tỵ, chống đối, chia rẽ, nói xấu, cắt nghĩa sai trong đời sống phục vụ. Rồi chúng ta cũng vấp ngã khi được mời gọi chia sẻ với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thập giá của Ngài lúc đau ốm bệnh tật, lúc gặp thử thách, khó khăn và đau khổ, lúc bị hiểu lầm và loại trừ. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu về khả thể vấp ngã vì Ngài giúp chúng ta ý thức hơn thân phận yếu đuối của mình để sống gắn bó mật thiết với Ngài hơn trong từng ngày sống của mình.

Sau khi nói đến khả thể “vấp ngã,” Chúa Giêsu trình bày cho các môn đệ biết về những điều sẽ xảy ra trong khi họ đối diện với bách hại: “Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi” (Ga 16:2-4a). Những thực tại về việc bị loại trừ cũng được chúng ta đối diện trong đời sống hằng ngày của mình, nhất là trong đời sống của các hội đoàn hoặc cộng đoàn. Sự khai trừ xảy ra khi lối sống của chúng ta khác với những người khác vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Chúa Giêsu. Điều đáng để chúng ta xét mình ở đây là việc Chúa Giêsu chỉ ra nguyên nhân của việc bách hại và loại trừ có thể đến từ những “ý hướng có vẻ tốt” – nhân danh Thiên Chúa. Nhiều lần chúng ta cũng “dùng danh Chúa” để loại trừ anh chị em của mình. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng khi chúng ta loại trừ anh chị em mình là chúng ta chưa biết hoặc không biết Chúa Cha và Chúa Giêsu. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng chậm giận và rất mực khoan dung, Ngài là Đấng không loại trừ ai ra khỏi tình yêu của mình. Học ở nơi Ngài, chúng ta sống đời sống yêu thương tha thứ, không loại trừ anh chị em mình ra khỏi con tim của mình. Bên cạnh đó, chúng ta cũng được nhắc nhở rằng dù bị anh chị em mình loại trừ, Thiên Chúa luôn yêu thương và có chỗ cho chúng ta trong trái tim Ngài.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB