(Đnl 10:12-22; Mt 17:22-27)
Những lời “tâm tình” của Môsê cho con cái Israel được thuật lại trong bài đọc 1 hôm nay đáng để chúng ta suy gẫm. Chúng ta rút ra hai điều sau để làm kim chỉ nam cho ngày sống của mình. Điều đầu tiên là lời mời gọi kính sợ Thiên Chúa: “Giờ đây, hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Đnl 10:12-13). Kính sợ Thiên Chúa được thể hiện qua việc (1) đi theo mọi đường lối của Người; (2) yêu mến phụng thờ Người hết lòng hết dạ; (3) giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người. Khi thực hiện những điều này, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Điều này dường như đối nghịch với lối suy nghĩ của nhiều người ngày hôm nay. Chúng ta xem việc thờ phượng và giữ các mệnh lệnh của Ngài [được “đề nghị bởi Giáo Hội] lấy đi sự tự do và hạnh phúc của mình. Những lời “dặn dò” của Môsê chỉ cho chúng ta thấy rằng, chúng ta chỉ được hạnh phục đích thật khi chúng ta kính sợ Thiên Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài.
Điều thứ hai là lời mời gọi “cắt bì tâm hồn và đừng cứng cổ” (Đnl 10:16). Đối với người Do Thái, cắt bì là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa với Ápraham. Cắt bì là tháp nhập họ vào trong dân riêng của Chúa. Tuy nhiên, điều Môsê mời gọi ở đây là không chỉ cắt bì thể lý, nhưng quan trọng hơn là cắt bì tâm hồn. Nói cách khác, Môsê mời gọi dân Israel thuộc trọn về Chúa không chỉ bằng những lễ nghi bên ngoài, nhưng hơn hết con tim và cõi lòng thuộc trọn về Ngài. Họ không nên chỉ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, mà lòng họ thì xa Chúa. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về thái độ chúng ta có khi đến với Chúa hay khi chúng ta diễn tả đức tin của mình. Những cử chỉ bên ngoài phải được đi kèm với tình yêu và lòng thành kính bên trong. Chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa cả trên môi miệng lẫn tâm hồn.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài. Trình thuật này cũng được thánh Máccô (9:30-32) và Luca (9:43-45) ghi lại. Đây là lần tiên báo ngắn nhất và không rõ ràng nhất. Theo một số học giả Kinh Thánh, trình thuật này diễn tả kiểu tiên đoán đầu tiên. Trong lời tiên đoán, Thánh Mátthêu bỏ đi sự bí mật được Thánh Máccô thuật lại. Thánh Mátthêu đồng hoá Con Người với Chúa Giêsu và định mệnh của Ngài là phải chịu đau khổ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy” [đúng hơn là “Người sẽ được làm cho trỗi dậy”] (Mt 17:22-23). Tư tưởng Con Người phải chịu đau khổ này không được ám chỉ trong hình ảnh Con Người tìm thấy trong sách Ngôn sứ Đanien (x. Đn 7:13). Sự đồng hoá này được thấy rõ hơn qua việc “các môn đệ buồn phiền lắm” (Mt 17:23) vì họ biết rằng Chúa Giêsu đang nói về Ngài. Một chi tiết mà chúng ta cần lưu ý trong lời tiên đoán là việc Chúa Giêsu sử dụng thể “bị động” khi nói đến cuộc thương khó và phục sinh của Ngài [“Con Người sắp bị nộp…” hoặc “ngày thứ ba Người sẽ được làm cho trỗi dậy]. Điều này ám chỉ Thiên Chúa [Chúa Cha] chính là Đấng chủ động, còn Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha. Chúng ta rút ra được điều gì từ chi tiết này? Chúng ta sẽ gặp đau khổ [hoặc có được niềm vui] trong cuộc sống. Nếu để Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của mình, chúng ta luôn đi đúng đường vì chúng ta luôn thực hiện thánh ý Ngài.
Sau khi thuật lại lần tiên đoán thứ hai về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Thánh Mátthêu thêm vào một câu chuyện mà chỉ thấy trong Tin Mừng của Ngài, đó là câu chuyện về việc đóng thuế cho đền thờ. Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng loại thuế được đề cập đến trong đoạn trích này là thuế đền thờ, nhưng trong thực tế có đến bốn loại thuế được đề nghị ở đây. Nếu loại thuế này là thuế nhà nước, thì ý nghĩa của câu chuyện giống với trình thuật trong Mt 22:15-22. Nếu câu chuyện nói về một biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu, loại thuế nói đến có thể là thuế về tôn giáo cho người giữ Đền Thờ (x. Xh 30:13-14). Nếu câu chuyện đến từ chính việc ấn bản của Thánh Mátthêu và ám chỉ đến tình trạng sau năm 70 [sau khi Đền Thờ bị phá huỷ], thì loại thuế được đề cập đến là loại thuế để đóng góp cho đền thờ của Jupiter Capitolinus ở Rôma. Điều này không thể xảy ra vì nó đóng góp cho việc tôn thờ ngẫu tượng, điều mà người Do Thái và Kitô giáo không thể thực hiện. Loại thuế cuối cùng có thể là khoản đóng góp để nâng đỡ các học giả ở Jamnia như là dấu chỉ hiệp thông của các tín hữu Do Thái với những người Do Thái khác. Tuy nhiên, điều này cũng khó có thể xảy ra vì trong “công đồng” Jamnia, người Do Thái đã đuổi các tín hữu Do Thái. Bốn loại thuế trên vẫn được tranh cãi giữa các học giả Kinh Thánh. Tuy nhiên, như chúng ta đã trình bày, thuế đền thờ là khả thể nhất vì nó được phản ánh trong câu chuyện.
Câu chuyện về nộp thuế đền thờ được vén mở trong hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (Mt 17:24-25) nói về cuộc đối thoại của những người thu thuế với Phêrô. Giai đoạn 2 (Mt 17: 25-27) bao gồm cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô. Chìa khoá để hiểu câu chuyện là việc Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” Thánh Phêrô cho biết, chỉ có người ngoài nộp thuế. Điều này cho thấy những người thu thuế xem Chúa Giêsu như người ngoài. Đây là lối diễn tả về việc Chúa Giêsu bị loại trừ [nó cũng phản ánh tình trạng các tín hữu của cộng đoàn Thánh Mátthêu bị loại trừ khỏi hội đường của người Do Thái]. Chi tiết đáng để chúng ta suy gẫm trong cuộc đối thoại với Phêrô là việc Ngài nói đến lý do tại sao Ngài đóng thuế cho Ngài và Phêrô, đó là “khỏi làm cớ cho họ sa ngã” (Mt 17:27). Trong những lời này, Thánh Mátthêu chỉ cho thấy sự nhạy cảm của Ngài về việc đối thoại “đại kết” và mục vụ. Ngài đề cập đến việc tránh làm gương mù gương xấu trong đoạn này như lời giới thiệu cho chương kế tiếp [chương 18]. Như vậy, nội dung chính của đoạn này không phải là phép lạ [câu cá mở miệng để lấy tiền] vì phép lạ không được mô tả [chỉ được nói đến trong thể chưa xảy ra]. Nội dung chính ở đây là việc Chúa Giêsu muốn các môn đệ sống đời sống hoàn hảo hơn, đó là không làm cớ cho người khác vấp ngã. Chúng ta cũng được mời gọi thực hiện điều này. Nhiều khi chúng ta cần làm hoặc tránh một vài việc, dù theo “luật” những việc này là hợp lý. Chúng ta làm như thế vì “bác ái,” vì chúng ta không muốn làm cho người khác sa ngã vì hành động của mình.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB