(Cv 13:13-25; Ga 13:16-20)
Bài đọc 1 tiếp tục trình bày cho chúng ta hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô và Banaba ở Antiôkhia. Như được thuật lại, trong thời gian đầu, các Tông Đồ vẫn tham gia với người Do Thái những cử hành trong hội đường vào ngày Sabát, đó là đọc và cắt nghĩa sách thánh. Điều này chúng ta thấy Chúa Giêsu vẫn làm trong sứ vụ công khai của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Phaolô đã giải thích sách Luật và sách các Ngôn Sứ cho những người hiện diện trong hội đường Antiôkhia. Vì là một người biệt phái trước khi trở thành ‘Kitô hữu,’ Phaolô đã sử dụng Kinh Thánh để chứng minh rằng Chúa Giêsu là Đấng Messia. Thánh nhân đưa thính giả của mình trở về với lịch sử của người Do Thái, về những lời hứa Thiên Chúa, về với dòng dõi Đavít để từ đó xuất hiện Đấng Cứu Đô: “Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu” (Cv 13:23). Trong sự kiện này, chúng ta thấy Phaolô là người rất nhạy bén. Thánh nhân biết sử dụng những gì mà thính giả của mình quen thuộc để truyền tải sứ điệp Tin Mừng. Đây chính là điều để chúng ta noi theo, đó là biết sử dụng những hình ảnh quen thuộc của những người chúng ta gặp gỡ để nói về sứ điệp Tin Mừng. Điều chúng ta cần ý thức trong hành trình rao giảng là sứ điệp Tin Mừng không phải là một “số kiến thức” chết để truyền đạt, nhưng là một “lối sống rất sống động” để biến đổi con người.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta những lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ sau khi rửa chân cho họ. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13:16-17). Những lời trên là lối nói khác của Thánh Gioan được viết trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (10:24) và Luca (6:40). Những lời này dùng đề tài người sai đi và người được sai đi nhìn từ khía cạnh Kitô học của Tin Mừng. Tiếp theo là những lời nói đến tầm quan trọng của việc được sai đi, việc nhận thức rằng mình chỉ là người được sai đi chứ không phải là người sai, người mang sứ điệp chứ không phải là sứ điệp.
Đề tài về người chăn chiên biết chiên của mình lại xuất hiện ở đây: Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu” (Ga 13:18-19). Những lời này được trích từ Thánh Vịnh (41:9) và được áp dụng cho việc tiên báo về kẻ phản bội Chúa Giêsu. Chúng thuộc về truyền thống của cuộc thương khó Chúa Giêsu (x. Mc 14:18). Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, câu 19 không được sử dụng để khẳng định rằng chính việc phản bội sẽ bày tỏ căn tính Chúa Giêsu là “Đấng Hằng Hữu.” Những lời này ám chỉ đến sự hoàn thành của những lời Chúa Giêsu nói đến trong sự kiện đóng đinh (x. Ga 8:18). Hình ảnh Chúa Giêsu biết trước người sẽ nộp Ngài nhưng Ngài vẫn yêu, vẫn chọn và xem người đó như một con chiên yêu quý của Ngài làm chúng ta phải suy nghĩ. Trong cuộc sống, thường chúng ta chỉ biết một người làm mình đau khổ chỉ khi sự việc đã xảy ra, nhưng chúng ta vẫn khó để yêu và tha thứ cho họ. Ở đây, Chúa Giêsu biết trước, nhưng vẫn yêu và vẫn chọn. Điều này chứng tỏ một tình yêu thật bao la Ngài dành cho những kẻ thuộc về Ngài, những kẻ mà Ngài yêu cho đến cùng. Liệu chúng ta có tiếp tục yêu và chọn những người làm chúng ta đau khổ làm bạn và những người đồng hành trên đường về thiên đàng với chúng ta không?
Trình thuật Tin Mừng kết thúc với mối tương quan giữa các môn đệ và Chúa Giêsu, giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13:20). Câu này ám chỉ về câu 16 và dường như được đặt không đúng chỗ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, những lời này nói đến phần thưởng dành cho những người đón nhận các môn đệ là những người được sai đi nhân danh Chúa Giêsu (x. Mt 10:40). Nếu lưu ý cẩn thận, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu như đóng vai trò trung gian: Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến, và Chúa Giêsu là người sai các môn đệ. Như thế, Chúa Giêsu được sai đến nhân danh Chúa Cha, còn các môn đệ được sai đi nhân danh Chúa Giêsu. Nếu các môn đệ muốn đến với Chúa Cha, họ phải qua Chúa Giêsu. Tuy nhiên, điều chúng ta có thể rút ra từ những lời trên là việc “phản chiếu cách trung thực” Đấng sai mình. Chúa Giêsu đã phản chiếu cách trung thực Chúa Cha vì Ngài là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình.” Ai nhìn thấy Ngài là thấy Chúa Cha. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có phản chiếu cách trung thực hình ảnh của Chúa Giêsu trong cuộc sống của chúng ta không? Liệu người khác có nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện trong chúng ta không?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB