(St 11:1-9; Mc 8:34 – 9:1)
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta câu chuyện về tháp Babel. Lời Chúa trình bày cho chúng ta rằng, trong ý định của Thiên Chúa, Ngài muốn con người sống hiệp nhất, thông hiểu nhau, nên Ngài ban cho họ “đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau” (St 11:1). Nhưng thay vì sống khiên nhường trước mặt Chúa và làm cho danh Ngài được tôn vinh, con người muốn làm cho danh mình được lẫy lừng, họ đã “xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời” (St 11:4). Mục đích là để họ “khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất” (St 1:4). Nhưng chính sự kiêu ngạo và nỗ lực hiệp nhất (nên một) với sức của mình để làm vinh danh mình, con người đã không muốn Thiên Chúa can dự vào cuộc sống riêng tư, thậm chí muốn làm mọi sự để danh thơm lưu truyền tới muôn thế hệ và trải dài khắp mặt đất. Chúng ta có thể nói rằng chính sự kiêu căng, tự phụ ấy đã làm cho con người quên mất Chúa, loại bỏ Người ra khỏi cuộc sống, không tôn nhận Thiên Chúa làm chủ vận mạng. Bởi vậy, Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ đến phận mình chỉ như cơn gió thoảng ngoài. Ngài đã làm cho tiếng nói của con người bị xáo trộn, để họ không còn hiểu nhau và như thế bị phân tán ra khắp nơi trên mặt đất. Chi tiết này dạy chúng ta rằng sự hiệp nhất là một món quà của Thiên Chúa ban cho. Khi chúng ta xây dựng sự hiệp nhất dựa trên “sức mạnh” và “sự khôn ngoan” của chính mình mà gạt Chúa ra khỏi kế hoạch xây dựng hiệp nhất, thì chúng ta càng tạo thêm sự chia rẽ. Hiệp nhất chỉ có được khi có Chúa là trung tâm của mọi sự. Nói cách cụ thể, sự hiệp nhất chỉ đạt được khi mỗi người chúng ta trong lời ăn tiếng nói, trong cử chỉ hành động chỉ tìm làm vinh danh Thiên Chúa chứ không làm cho danh mình được lừng lẫy.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời Chúa Giêsu về ơn gọi của người môn đệ. Điều này xảy ra sau khi Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài (x. Mc 8:31-33). Chúa Giêsu bắt đầu với việc về cái giá người môn đệ phải trả, chúng ta đọc thấy những lời sau: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? (Mc 8:34-36). Chúng ta thấy có hai cái giá mà người môn đệ phải trả, đó là “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá mình.” “Từ bỏ chính mình” ám chỉ đến việc hoàn toàn từ bỏ ý muốn của mình để tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Hay nói cách khác là hoàn toàn quy phục ý muốn của mình trước thánh ý Thiên Chúa. Còn “vác thập giá mình” không ám chỉ đến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh. Kiểu chết tàn khốc này thường xảy ra trong thời cổ. Câu nói của Chúa Giêsu mang tính chất tục ngữ mà qua đó thập giá ám chỉ đến những đau khổ và khó khăn mà người môn đệ sẽ gặp phải trên bước đường theo Ngài. Còn trong câu khẳng định mang tính đối nghịch về việc cứu mạng sống mình, Chúa Giêsu ám chỉ đến những người tránh tử đạo, tránh việc làm chứng cho Ngài đến độ hy sinh mạng sống của mình. Khi khuyến cáo các môn đệ về việc được cả thế giới mà mất mạng sống mình, Chúa Giêsu nói đến mối nguy hiểm của việc thu gom của cải vật chất đến nỗi đặt trọn con tim của mình vào đó như là kho tàng, để rồi không còn chỗ cho Chúa trong tim mình. Chúng ta có chỗ cho Chúa trong con tim của mình không?
Chúa Giêsu kết với việc đưa các môn đệ về viễn cảnh của ngày cánh chung để khuyến khích các môn đệ sống trung thành với ơn gọi của mình dù gặp nhiều đau khổ và bắt bớ trên đường theo Ngài: “‘Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.’ Đức Giêsu còn nói với họ: ‘Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực’” (Mc 8:38-9:1). Những lời trên phản ánh những lời chứa đựng trong Tv 62:13. Một chi tiết cần lưu ý là câu nói của Chúa Giêsu về “những người không phải nếm sự chết cho đến khi Con Người đến hiển trị.” Khoảng thời gian trong câu nói này là không đúng nếu nó ám chỉ đến việc Nước Trời đến trong sự tròn đầy của nó như được đề cập đến trong Tin Mừng Thánh Máccô (13:32). Những lời này ám chỉ đến việc “một số” nhìn thấy lời hứa được hoàn thành trong sự kiện biến hình. Chi tiết này nói cho chúng ta rằng: Chúng ta cũng có thể nếm cảm được niềm vui của thiên đàng trong đời sống thường ngày. Điều quan trọng là chúng ta có đến với Chúa Giêsu để cảm nếm vị ngọt tình yêu thiên đàng hay không?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB