Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Tư sau Chúa Nhật IV Thường Niên – Tìm Thấy Cái Phi Thường Trong Cái Bình Thường

(Hr 12:4-7.11-15; Mc 6:1-6)

Mỗi ngày trôi qua, ai trong chúng ta cũng trải qua kinh nghiệm chiến đầu với tội lỗi. Có khi chúng ta chiến thắng, nhưng cũng nhiều lần chúng ta đã thất bại. Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả thư Hípri trình bày cho chúng ta thái độ cần thiết trong cuộc chiến đấu với tội lỗi. Thái độ đầu tiên chúng ta cần đó là “đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách” (Hr 12:5). Thông thường, mỗi khi bị cám dỗ, ít người trong chúng ta nhớ đến lời Chúa dạy và đem ra thực hành. Chúng ta thường nuông chiều theo bản tính tự nhiên của mình. Và khi bị sa ngã, chúng ta bị Thiên Chúa sửa dạy [qua người khác hoặc những sự kiện xảy ra trong đời sống]. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta lại thấy nản lòng và có khi buông xuôi. Đứng trước thái độ này, tác giả thư Hípri nêu lên lý do tại sao chúng ta không nên nản lòng khi Thiên Chúa khiển trách, đó là “vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Hr 12:6). Những lời này mang lại cho chúng ta sự an ủi và niềm vui sâu lắng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn hoặc bị Thiên Chúa sửa dạy. Hình ảnh quen thuộc được tác giả thư Hípri sử dụng để so sánh việc Thiên Chúa sửa dạy chúng ta là hình ảnh người cha sửa phạt con cái mình: “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” (Hr 12:7). Thật vậy, trong cuộc sống thường ngày, người cha nào cũng muốn con cái mình lớn lên trong ân nghĩa Thiên Chúa và đẹp lòng trước mặt mọi người. Có yêu thương, có quan tâm, có chăm sóc thì người cha mới sửa dạy, uốn nắn con mình. Chúng ta thường nghe nói rằng: “Thương con thì cho roi cho vọt, ghét con thì cho ngọt cho bùi.” Điều này cho thấy, sự sửa dạy rất quan trọng trong cuộc sống để chúng ta không sống theo bản năng tự nhiên, nhưng sống trong ân sủng như những người con cái Thiên Chúa. Mỗi khi sửa dạy, người cha nào cũng nghĩ đến kết quả mà việc sửa dạy sẽ mang lại. Nếu những người con hiểu được tâm tình này, thì sẽ không oán giận, nhưng sẽ cảm nghiệm được niềm vui của yêu thương và chăm sóc của người cha. Tác giả thư Hípri chỉ ra rằng niềm vui trong việc được sửa dạy là cuộc sống bình an và đi trong nẻo đường công chính: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (Hr 12:11). Những lời này phản ánh trung thực thái độ của mỗi người chúng ta khi bị sửa dạy, đó là cảm thấy khó chịu hoặc buồn phiền. Khi bị Thiên Chúa sửa dạy, chúng ta cũng cảm thấy nghi ngờ về tình yêu của Ngài. Liệu chúng ta có đủ can đảm để làm theo và đủ kiên nhẫn để thấy hoa thơm trái tốt được sinh ra trong cuộc sống của chúng ta không?

Thái độ thứ hai chúng ta cần phải có trong cuộc chiến đấu với tội lỗi là sống hiền hoà với mọi người và kiên định, không nửa vời trong việc theo Chúa: “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. Anh em phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người” (Hr 12:14-15). Những lời này làm chúng ta phải suy nghĩ về mục đích đời sống của mình, đó là trở nên thánh thiện. Trong tám mối phúc thật, chúng ta nghe rằng những người được nhìn thấy Thiên Chúa là những người có tâm hồn trong sạch. Nhìn theo khía cạnh này, sự thánh thiện chính là sống với tâm hồn trong sạch. Tâm hồn trong sạch là gì? Tâm hồn trong sạch là người có con tim dành riêng cho Thiên Chúa, dâng cho Chúa một con tim không bị phân chia. Con tim chúng ta có dành riêng cho Thiên Chúa không hay vẫn bị chia năm xẻ bảy bởi những lợi danh của đời?

Thánh Máccô trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trở về quê quán mình. Mỗi khi đi xa, chúng ta thường mong ước trở về quê quán mình vì ở đó chúng ta sẽ gặp được những người thân của mình. Chúa Giêsu cũng thế. Sau một thời gian xa nhà, Ngài về thăm Mẹ Maria và những người thân. Nhưng lần này, Ngài về với các môn đệ của Ngài: “Khi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo” (Mc 6:1). Điều chúng ta lưu ý ở đây là Chúa Giêsu đã “nổi tiếng.” Đây chính là lăng kính để chúng ta hiểu phản ứng của dân chúng ở quê quán của Ngài. Nhìn trong bối cảnh chung của Tin Mừng, trình thuật Tin Mừng hôm nay kết thúc phần gồm ba hành động ngoại thường của Chúa Giêsu (làm biển lặng, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân). Phần kết thúc này nói về việc Chúa Giêsu bị loại trừ bởi những người thân, những người nơi quê quán mình. Chi tiết này rất quan trọng vì nó đưa những đề tài đang được thánh sử phát triển như ơn gọi người môn đệ và đức tin đến cùng đích. Nói cách khác, trình thuật này ám chỉ đến vận mệnh của những người môn đệ Chúa Giêsu, những người đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Họ sẽ bị loại trừ vì lối sống khác biệt, lối sống theo ân sủng chứ không theo tính xác thịt của mình.

Câu chuyện được đặt trong bối cảnh ngày sabát: “Đến ngày sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (Mc 6:2). Những lời này tiếp tục trình bày Chúa Giêsu như là thầy dạy và người chữa lành, điều đã được đề cập đến trong chương 1 (21-28). Chính những lời dạy và việc chữa lành của Chúa Giêsu trong ngày sabát là nguyên nhân những người Do Thái loại trừ và kết án Ngài. Tuy nhiên, điều chúng ta suy gẫm ở đây là thái độ của thính giả của Ngài. Khi nghe Ngài giảng “nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên” (Mc 6:2). Nhưng sau đó, họ đổi thái độ qua nghi ngờ, chất vấn, rồi vấp ngã: “Họ nói: ‘Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?’ Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6:2-3). Những câu hỏi trên liên quan đến nguồn gốc của sự khôn ngoan, nguồn gốc của quyền năng làm phép lạ và cuối cùng là nguồn gốc của chính Ngài. Chính những vấn nạn về nguồn gốc này đã làm họ thay đổi thái độ với Chúa Giêsu vì họ không thể vượt qua nguồn gốc con người của Chúa Giêsu. Sự thay đổi trong thái độ này cũng đươc phản chiếu trong đời sống mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng thay đổi thái độ trong tương quan với Thiên Chúa và anh chị em mình từ ngạc nhiên, vui mừng đến chối bỏ, buồn sầu vì chúng ta không có cái nhìn vượt lên “nguồn gốc con người” của mọi sự. Để sống mãi trong thái độ kinh ngạc, thán phục, yêu thương và tôn vinh, chúng ta cần nhìn mọi sự với ánh mắt của Thiên Chúa; chúng ta cần đọc mọi sự dưới lăng kính của ân sủng hơn là dưới lăng kính của bản tính tự nhiên con người. Mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta đều có mục đích mang tính thiêng liêng. Chỉ những ai hiểu được ý nghĩa của ngày sabát, đó là nghỉ ngơi trong Chúa và với Chúa, mới có thể nhận ra mục đích thiêng liêng đó.

Trước thái độ loại bỏ của những người thân, những người ở quê quán mình, Chúa Giêsu sử dụng câu ngạn ngữ sau để trả lời: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Những lời này ám chỉ thái độ “quen thuộc thường là nguồn gốc của sự xem thường.” Nhưng điều giải thích cho những lời này là hành động đi kèm theo của Chúa Giêsu: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:5-6). Những lời này cho thấy, Chúa Giêsu “không thể” làm phép lạ nào, không phải là vì Ngài bị loại trừ hoặc xem thường, nhưng vì họ “không tin.” Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, đức tin luôn là điều kiện cần thiết cho phép lạ được thực hiện. Đức tin ở đây chính là “biết nhìn qua những gì mang tính con người để nhận ra nguồn gốc thần thiêng của mọi sự và mọi người.” Ở đây, chi tiết chúng ta lưu ý để suy gẫm là: không phải Chúa Giêsu “không thể” làm phép nào vì Ngài có đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân [“trong ngày sabát”]. Ngài vẫn làm việc tốt dù có bị khinh khi hoặc xem thường. Chúng ta thế nào: Khi bị anh chị em mình loại trừ hoặc xem thường, chúng ta có ngưng làm việc tốt hoặc tìm cách loại trừ và xem thường lại anh chị em mình không?

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB