Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Tư sau Chúa Nhật XXII Thường Niên – Kết Hiệp Mật Thiết Với Thiên Chúa Khi Bắt Đầu Ngày Sống

(Cl 1:1-8; Lc 4:38-44)

Chúng ta bắt đầu nghe thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôxê. Bài đọc 1 trích lời chào (Cl 1:1-2) và lời tạ ơn (Cl 1:3-8) của thánh nhân. Trong phần chào, Thánh Phaolô theo hình thức của những lá thư thời đó, bắt đầu với việc liệt kê tên người gởi và người được gởi cùng với lời chào. Nội dung chính của lá thư, nhất là phần hướng dẫn để sửa những giảng dạy sai trong cộng đoàn, trình bày quyền của Thánh Phaolô là quyền của một tông đồ. Lời quan trọng trong phần này là “trong Đức Kitô.” Những lời này diễn tả sự hiệp nhất của người tín hữu với Đức Kitô trên nhiều cấp độ và đây là một đề tài quan trọng trong thư gởi Côlôxê. Vì chỉ trong Đức Kitô mà các tín hữu được ban cho ân sủng và bình an.

Tạ ơn là một phần của hầu hết các lá thư trong Tân Ước. Phần này nhằm mục đích nói về mối tương quan giữa người gởi và người nhận, về cộng đoàn và về bối cảnh của lá thư. Trong phần này, chúng ta nhận ra những yếu tố sau: (1) Tin Mừng được mang đến cho cộng đoàn bởi Épápra (Cl 1:7), (2) cộng đoàn phát triển và sinh hoa trái (Cl 1:6), và (3) một bản tường trình đã được mang đến cho Thánh Phaolô (Cl 1:4). Thánh Phaolô đề cập đến ba nhân đức đối thần [tin, cậy, mến] ở đây (Cl 1:4-5). Ba nhân đức này thường xuất hiện trong các thư trong Tân Ước và có thể là một phần của truyền thống trước thời thánh Phaolô. Bên cạnh đó, bộ ba này trở thành đề tài được mở rộng trong giáo huấn của lá thư. Tin vào Đức Kitô Giêsu (Cl 1:4), được phát triển trong 1:23, là điều kiện cho việc trở nên thánh thiện và không tì ố trước Đức Kitô, và được phát triển trong 2:12 như một phương tiện để những người tin được làm cho trỗi dậy với Đức Kitô. Tình yêu là điều được thực hành trong cộng đoàn để giữ cho các bộ phận trong thân thể ăn khớp với nhau (x. Cl 1:4,8). Còn niềm cậy trông là một điều gì đó ở bên ngoài người tin hầu giúp người tin đứng vững trong đức tin và son sắt trong đức mến. Những chi tiết này mời gọi chúng ta xét lại đức tin, đức cậy và đức mến của chúng ta: Chúng ta đã thực sự sống đời sống thánh thiện và không tì ố nhờ tin Chúa Giêsu chưa? Chúng ta đã thực hành đức mến cách triệt để trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chưa? Chúng ta đã trông cậy vững vàng khi đức tin bị lung lay và đức mến bị thử thách chưa?

Ngày hôm qua, Thánh Luca trình thuật cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu trừ một người [đàn ông] bị thần ô uế ám ngay trong hội đường. Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe những gì tiếp theo sau đó. Hai bài Tin Mừng hôm nay và hôm qua cho chúng ta thấy một ngày sống của Chúa Giêsu diễn ra như thế nào. Chúng ta sẽ hiểu bài Tin Mừng hôm nay tốt hơn khi chúng ta liên kết nó với bài Tin Mừng hôm qua.

Điểm đầu tiên chúng ta cần lưu ý là việc Chúa Giêsu luôn bắt đầu ngày sống với “giây phút hiệp nhất với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm qua trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc đọc, suy gẫm và giảng dạy Lời Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc “đi ra một nơi hoang vắng” [để kết hiệp với Chúa Cha]. Hình ảnh này của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về việc chúng ta bắt đầu ngày sống như thế nào. Sống trong thế giới bận rộn, chúng ta luôn chạy theo công việc: bắt đầu và kết thúc ngày sống với công việc. Không mấy ai trong chúng ta bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa qua những giây phút nối kết mật thiết với Ngài. Ngay cả những người sống đời thánh hiến, có thể nói, họ bắt đầu ngày sống với việc lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng dành thời gian để cầu nguyện. Nhưng trong thực tế, họ không chìm sâu trong tình yêu của Thiên Chúa vì họ làm những điều đó như một thói quen hay bổn phận cần thực hiện, chứ không như một “đặc ân” không thể thiếu cho ngày sống. Hệ quả là ngày sống nhiều khi trở nên nặng nề và vô nghĩa. Chỉ những ai bắt đầu ngày sống bằng việc chìm sâu trong đại dương tình yêu của Chúa mới có thể đón nhận tất cả những nặng nhọc của ngày sống với niềm vui có Chúa.

Chúng ta nhận ra ba phần trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu chữa mẹ vợ ông Simon (Lc 4:38-39); Chúa Giêsu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền (Lc 4:40-41); và Chúa Giêsu trình bày mục đích Ngài được sai đến (Lc 4:42-44). Trong câu chuyện chữa mẹ vợ của ông Simon, chúng ta thấy được sự khác biệt của Thánh Luca và Thánh Máccô trong ơn gọi làm môn đệ của Simon [Phêrô]. Trong Tin Mừng Thánh Luca, ơn gọi của Simon được trình thuật lại đầu tiên trong chương 5 (1-11), trong khi đó Thánh Máccô trình thuật ơn gọi của Simon ngay trong chương 1 (16-20). Cách cụ thể hơn, trong Tin Mừng Thánh Máccô, Simon được gọi trước khi Chúa Giêsu chữa lành mẹ vợ ông; còn trong Tin Mừng Thánh Luca, Simon được gọi sau câu chuyện về mẹ vợ của ông được chữa lành. Thánh Luca muốn nói điều gì qua chi tiết này? Có hai lý do để thánh Luca sắp xếp câu chuyện theo thứ tự đó: (1) Tin Mừng thánh Luca phát triển luận đề về đức tin và ơn gọi của người môn đệ được phát xuất từ cuộc gặp gỡ với “phép lạ.” Trong bài Tin Mừng, Simon đã nhìn thấy phép lạ thực hiện cho mẹ vợ mình và như thế ông sẵn sàng đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi ông; (2) lý do thứ hai được xây dựng trên sự kiện là trong nghệ thuật văn chương của mình, thánh Luca muốn đề cập tên nhân vật sớm trong câu chuyện và sau đó sẽ cung cấp thêm chi tiết về nhân vật đó. Qua hai chi tiết này, chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều “phép lạ,” nhưng đức tin và ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu của chúng ta hình như không trở nên mặn mà và sâu đậm hơn. Điều này mời gọi chúng ta hãy nhìn ngày sống của mình như một cơ hội tốt để nhìn thấy những điều kỳ diệu Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta, cho người khác và trên thế giới, hầu lớn lên trong đức tin và ơn gọi làm môn đệ của Ngài.

Một chi tiết khác chúng ta cần lưu ý trong câu chuyện chữa lành mẹ vợ ông Simon là hành động của Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài” (Lc 4:39). Trong câu này, Thánh Luca sử dụng thuật ngữ “ra lệnh” [Gk. epitiman], thuật ngữ dùng để trừ thần ô uế. Chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ “ra lệnh” và mẹ vợ ông Simon lành bệnh ngay lập tức. Điều này giống với câu chuyện Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám trong hội đường [được đọc ngày hôm qua]. Khi dùng thuật ngữ ngày, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến quyền năng lời nói của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu mang lại cho mẹ vợ ông Simon sức khoẻ ngay lập tức để bà có thể thực hiện những bổn phận thường ngày mà không gặp khó khăn. Lời của chúng ta thế nào? Lời chúng ta có giúp người khác tìm lại được niềm vui để phục vụ Chúa và phục vụ anh chị em của mình không?

Phần thứ hai của bài Tin Mừng là bản tóm tắt mà trong đó việc trừ các thần ô uế được đặt dưới một thuật ngữ rộng hơn, đó là “chữa lành” (Gk. therapeuein). Trong phần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót với hết mọi người, không phân biệt ai: “Tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ” (Lc 4:40). Qua việc tỏ lòng thương xót với hết mọi người, được diễn tả qua việc chữa lành họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền, Chúa Giêsu mạc khải mình là “Con Thiên Chúa” và là “Đấng Kitô.” Thánh Luca thêm vào hai danh hiệu này [so với Thánh Máccô] nhằm nói lên nguồn gốc của Chúa Giêsu là từ Thiên Chúa (x. Lc 1:32-33,35) và nhằm khẳng định Ngài là Đấng được xức dầu để mang ơn cứu độ cho nhân loại qua việc trừ các quỷ thần ô uế khỏi con người. Trong phần này, Thánh Luca chỉ ra rằng, ngay từ đầu quỷ thần biết Chúa Giêsu là ai và Ngài sẽ làm gì. Tuy nhiên, con người cần một hành trình đức tin dài để khám phá ra Chúa Giêsu thật sự là ai và như thế đánh giá đúng mức vị trí thập giá trong cuộc đời của Đấng được xức dầu (x. Lc 24:26). Thật vậy, chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ và sâu đậm mới có thể hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng như vị trí và giá trị của thập giá trong hành trình được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền [hành trình thanh luyện khỏi con người sống theo khuynh hướng tự nhiên, để sống cho Thiên Chúa].

Bài Tin Mừng kết thúc với lời khẳng định của Chúa Giêsu về mục đích mà Ngài được sai tới: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4:43). Qua những lời này, thánh Luca trình bày cho chúng ta thấy mục đích của Chúa Giêsu là “loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” [cho mọi người.” Nước Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Theo Thánh Luca, sự thống trị của Thiên Chúa có nghĩa là chiến thắng quyền lực ma quỷ đang ám hại mọi người. Sự thống trị này được thực hiện bởi sự giảng dạy [lời] và phép lạ [hành động] của Chúa Giêsu. Chi tiết này mời gọi chúng ta đóng góp cho việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa bằng lời nói đầy dịu hiền yêu thương và bằng những hành động tốt cho người khác.

Lm. Anton Nguyễn Ngọc Dũng, SDB