Tên “Mến Thánh Giá”

Việt Nam chúng ta coi việc đặt tên, chọn tên cho một người là một việc làm thiêng liêng và hệ trọng bởi cái tên đó sẽ gắn liền với đứa trẻ, liên quan đến mọi mặt cuộc sống, và ảnh hưởng đến cả cuộc đời của nó.

Trong xã hội cũng vậy, khi đặt tên cho những ngôi trường, những trung tâm hay những tổ chức, những sự kiện hay những cơ xưởng kinh doanh… người ta cũng chọn tên trong sự cẩn trọng để cho mọi việc được tiến triển tốt đẹp, hanh thông, mau đi tới thành công.

Đối với các Hội dòng Mến Thánh Giá, cái tên Mến Thánh Giá đã trải qua bao nhiêu năm rồi, một cái tên tồn tại vững bền hơn 350 năm qua.

  1. Đức Cha Lambert De la Motte (không nói rõ là đã chọn tên cho chúng ta), mà chỉ nói: “Tôi bị cuốn hút vào đó. Họ mang tên là những người Mến Thánh Giá (AMEP,tập 116, trang 559-560) (Lịch sử Hội dòng Mến Thánh Giá Huế trang 30) (Ls MTG.H).
  2. Theo tinh thần và ý muốn của Đức Cha Lambert de la Motte, khoảng năm 1719, Cha Pierre de Sennemand đã thiết lập Phước viện Mến Thánh Giá đầu tiên tại Thợ Đức. Sau đó Phước viện bị bãi bỏ.

Năm 1739, Đức Khâm sứ De la Baume từ Rôma đến kinh lý (lúc đó các chị đã tản mác, chỉ còn lại 4 bà). Cha thư ký Pierre Favre của Đức Khâm sứ viết:”Việc tái lập lại nhà các Bà Đạo đức (tức là các nữ tu Mến Thánh Giá) đã tạo được một niềm vui sâu rộng giữa các tín hữu, họ vẫn nhớ các bà thật vô cùng hữu ích trong việc giáo dục con cái của họ và trong việc nâng đỡ an ủi các người bệnh của họ.” (Ls MTG.H trang 98).

  1. Theo nghiên cứu của Cha Đào Quang Toản Mến Thánh Giá Việt Nam  – Thế kỷ 18 tại Đàng Trong:  Những cải cách quan trọng nhất cho Dòng Mến Thánh Giá phải kể đến công lao của Hai Giám Mục Pigneau Bá Đa Lộc (+1799) và Labartette (+ 1823).
     
    Năm 1786, sau khi tới Đàng Trong, Cha Labartette lập ra hai cộng đoàn nữ tu phía Quảng Trị. Ngài không muốn gọi các chị là “Mến Thánh Giá” vì có một số điều trong luật dòng không giống như luật dòng Mến Thánh Giá, chẳng hạn không buộc phải kiêng thịt quanh năm. Ngài đi hỏi ý kiến giám mục của Ngài là Đức Cha Bá Đa Lộc. Đức Cha không hề phản đối sự cải tổ lề luật này để thích ứng với con người cùng hoàn cảnh; nhưng Đức Cha lại không muốn tên gọi nào khác hơn tên gọi “Mến Thánh Giá”Đó là một thay đổi quan trọng và chính thức nhất từ khi dòng Mến Thánh Giá được thành lập năm 1670 và 1671 tại Việt Nam. Chính thức, là vì do thẩm quyền Giám mục địa phận.” (x. Lm. Đào Quang Toản – Những cải cách trong Lịch sử dòng Mến Thánh Giá)
  2. Đức cha Jean Labartette là người đã thiết lập rất nhiều cộng đoàn Mến Thánh Giá tại Miền Trung, từ Quy Nhơn ra Quảng Bình. Ngài nhận thấy luật dòng Mến Thánh Giá do Đức cha Lambert lập hơi khắt khe, Ngài thưa với Đức cha chính Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) là muốn thay đổi một vài khoản luật (Theo Dòng Thăm Viếng), nhưng Đức cha Pigneau cựu lực phản đối ý định này và giữ lại Bản Luật của Dòng Mến Thánh Giá của Đức Cha Lambert. (Lịch sử Dòng Mến Thánh Giá số 4.2).
  3. Năm 1837, Đức cha Alex Chabanon (Giáo) coi sóc Giáo phận Bắc Đàng Trong viết trong bản báo cáo như sau:

“Có 20 địa điểm truyền giáo của các chị Mến Thánh Giá, tuy rất âm thầm khiêm tốn, nhưng rất thân thiện, khá gần gũi, vui vẻ, tiếp đón bệnh nhân trong nghèo khó, đơn sơ, phó thác cho Cha trên trời, sống thật với cái tên Mến Thánh Giá đẹp đẽ, sâu xa của họ.”

6. Vào khoảng năm 1910-1912, Cha Denis (Cố Thuận) được mời giảng phòng cho các sư huynh, các chị em Mến Thánh Giá (Di Loan), gọi đó là các chị Nhà phước, Ngài viết cho Cha mẹ: “Xưa kia họ là Nhà Phước Mến Thánh Giá, song nay chỉ gọi trống là Nhà Phước thôi.”(Tiểu sử Cố Denis Thuận, trang 69).

Theo dòng thời gian, cộng đoàn Dân Chúa chỉ gọi là: Các chị Nhà Phước, Nhà Phúc (đi tu là có phước, có phúc). Rồi tên Tu viện, Phước viện, Dòng kèm theo tên địa phương nơi có nhà chính, như Tu viện Mến Thánh Giá Phủ Cam, hay Phước viện Mến Thánh Giá Di Loan, Dòng Mến Thánh Giá Trí Bưu v.v.

Một biến cố lịch sử ít nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt của các Phước viện Mến Thánh Giá vào giữa thế kỷ 20 là cuộc di cư năm 1954. Phước viện Tam Tòa rời Đồng Hới vào định cư tại Thanh Tân, Thừa Thiên. Phước viện Di Loan vào ẩn náu nơi đất Đức Mẹ La Vang. Các chị tiếp tục thực thi lòng yêu Mến Thánh Giá Chúa Giêsu, thực hành các công tác, bổn phận mình qua công tác cầu nguyện, thăm viếng bệnh nhân với tinh thần đạo đức, hy sinh.

Cho đến khi Chúa Quan phòng gởi tới một vị mục tử tài đức, độ lượng: Đức Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, người đưa ra chương trình Canh tân và Hiệp nhất các Phước viện Mến Thánh Giá trong Tổng Giáo phận Huế, theo đúng đường hướng của Giáo Hội.

 CANH TÂN VÀ HIỆP NHẤT

Đây là giai đoạn quan trọng bậc nhất của Hội dòng. Sau nhiều năm các Phước viện Mến Thánh Giá chỉ tuyên hứa sống ba lời khuyên Phúc Âm, chưa tuyên khấn theo Giáo luật, nên chị em trong các Phước viện ước ao được đi vào sự thánh thiện của Hội thánh bằng cách tuyên khấn theo Giáo luật đã được Mẹ Hội thánh đề ra cho bậc tu trì.

Ngay sau thời gian nhậm chức tháng 04 -1961, Đức Cha Máctinô bắt đầu công cuộc thống nhất và cải tổ các Phước viện Mến Thánh Giá trong Giáo phận Huế, đưa chị em đến việc khấn theo Giáo luật. Ngài đã đặt tên cho các tu viện Mến Thánh Giá hiệp nhất là: Dòng Mến Thánh Giá – Thừa sai Huế. Ngày 05.3.1962 Thánh bộ Truyền giáo đã chấp thuận Bản “Hiến pháp Chị em Mến Thánh Giá Thừa sai Huế”.

Vì tầm quan trọng của công cuộc Canh tân và Hiệp nhất Dòng theo Giáo luật, Đức Tổng Giám mục Phêrô Máctinô tìm kiếm và chọn Dòng Nữ Kinh sĩ Thánh Augustinô cũng gọi là Dòng Đức Bà (Couvent des Oiseaux) Đà Lạt, một Dòng chuyên lo việc giáo dục, để đào tạo một số chị em Mến Thánh Giá Huế. Công việc chỉ mới bắt đầu thì biến cố chính trị 1963 (Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ) xảy ra trong lúc Đức TGM Phêrô Máctinô (bào huynh của Tổng thống) đang ở Rôma dự họp Công đồng Vatican II. Vì thế, ngài đã phải lưu vong tại xứ người cho đến lúc được Chúa gọi về Quê Trời, tại Mỹ, ngày 13.12.1984.

Đức Tổng Giám mục Philipphê tiếp tục hướng dẫn chị em trên đường Canh tân và Hiệp nhất trong suốt thời gian chủ chăn của mình (1964 -1988). Ngài đã cùng với Cha Giuse Trần Văn Tường và các nữ tu Dòng Đức Bà hướng dẫn chị em Mến Thánh Giá Thừa Sai-Huế vào thời gian đầu của chương trình Canh tân và Hiệp nhất.

Trong thời gian này, Dòng có tên gọi là: Dòng Mến Thánh Giá-Thừa Sai, đôi khi người ta gọi cho nhanh thì nói là các chị Thừa Sai. Như ở giáo xứ Hòa Yên, (Giáo phận Nha Trang) có 3 cộng đoàn dòng tu đến phục vụ, thì giáo dân vẫn gọi các chị Mến Thánh Giá Huế là “các chị Thừa Sai” cho đến bây giờ.

Đức Tổng Phêrô Máctinô hiểu rõ sứ mệnh việc Loan báo Tin Mừng, ngài muốn mở rộng công việc truyền giáo của Dòng Mến Thánh Giá Huế đến các Quốc gia: Lào, Thái Lan, Căm Bốt… với tên gọi Thừa Sai mà Giáo hội đang thao thức, tiếp nối công việc của các Tông đồ xưa và các Thừa sai ngoại quốc đã đến truyền giáo trên đất nước Việt Nam chúng ta. Chính vì thế, chỉ vài tháng sau, ngài đã sai hai chị Lucia Nguyễn Thị Kinh và Chị Maria Mađalêna Nguyễn Thị Tiên qua làm việc tại Lào vào năm 1962. Và hai chị Anna Đinh thị Luyến và Maria Mad. Nguyễn Thị Thiểu lên Kontum học tiếng dân tộc, quan sát cách họ sống, để về lên non giúp đồng bào dân tộc Quảng Trị.

Tại sao không còn tên Mến Thánh Giá-Thừa Sai nữa?

Năm 1985, tại TGP Sài Gòn bắt đầu hình thành NHÓM NGHIÊN CỨU LINH ĐẠO MẾN THÁNH GIÁ, được sự bảo trợ của Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình, TGM Giáo phận Sài Gòn, (nhóm quy tụ làm việc tại Tòa Giám Mục Sài Gòn) và dưới sự hướng dẫn, đồng hành của Cha Cố vấn Phi Khanh Vương Đình Khởi, với 7 Hội dòng Mến Thánh Giá thuộc giáo phận Sài Gòn, mỗi dòng 2 chị; Hội dòng Mến Thánh Giá Huế được tham gia rất sớm. Chị Maria Madalena Trương Thị Lý đóng góp, xây dựng khá nhiều ý kiến. Sau 5 năm và nhiều lần làm việc, cho đến năm 1990 đã hình thành quyển Hiến chương dự thảo, các Hội dòng Mến Thánh Giá Sài Gòn bắt đầu thử nghiệm, Mến Thánh Giá Huế cũng bắt đầu thử nghiệm cùng một vài Hội dòng khác nữa.

Trước đó, trong một buổi làm việc chung cả nhóm, như là buổi họp đúc kết đợt I (có sự tham gia của Dòng Mến Thánh Giá Huế), Cha Phi Khanh đã nêu lên ý kiến: Tinh thần Thừa Sai là tinh thần mang tính sứ vụ của ơn gọi Mến Thánh Giá do Đấng Sáng Lập để lại cho con cái của Ngài trong linh đạo Mến Thánh Giá sau cầu nguyện, hy sinh và chiêm ngắm Chúa Giêsu Chịu-Đóng-Đinh, nên theo thiển ý của Cha, Dòng Mến Thánh Giá Huế có thể không cần phải giữ lại chữ Thừa Sai nữa, để cho giống các Hội dòng khác. Như vậy, chúng ta có thể thống nhất Tên của mỗi Hội Dòng là: Hội Dòng Mến Thánh Giá + thêm tên địa phương nơi có Nhà Mẹ. Cụ thể như: Hội dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán, Hội dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn, Hội dòng Mến Thánh Giá Huế, Hội dòng Mến Thánh Giá Hà Nội… (Lúc đó, chị em Mến Thánh Giá Huế thinh lặng, đón nhận Ý Chúa qua sự kiện này như “chết đi” vậy!)

Lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu năm 1990, tại cộng đoàn Nhà Mẹ, Hội Dòng long trọng tổ chức Nghi thức Trao Hiến Chương cho toàn thể chị em trong Hội dòng Mến Thánh Giá Huế – để thử nghiệm 10 năm (1990-2000). Sau đó, Chị Maria Mad. Trương thị Lý Tổng phụ trách tuyên bố: chúng ta cũng không dùng thêm Hai chữ Thừa Sai sau tên Dòng nữa, theo như ý kiến của Cha Phi Khanh Vương Đình Khởi và Nhóm nghiên cứu Linh đạo Mến Thánh Giá Việt Nam (như đã nêu trên).

Nhận được quyển Hiến chương mới bởi hồng ân Thiên Chúa ban nhưng không, và cũng do công lao làm việc miệt mài của Nhóm dưới sự quan tâm yêu thương của Đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, sự hy sinh của Cha Phi Khanh và nổ lực của Nhóm. Chị em Mến Thánh Giá Huế rất hân hoan phấn khởi, biết ơn.

Muôn ngàn lần tạ ơn Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Truyền giáo.

(Tuy thế, chị em Mến Thánh Giá Huế nói: Xin lễ an táng cho hai chữ Thừa Sai của mình)

 

                                                                      Nữ tu Maria Nguyễn Thị Tuyệt