Trích Trong Luận Văn « Linh Đạo Phaolô Của Hội Dòng Mến Thánh Giá »(Tiếp theo)
(La Spiritualité Paulinienne Des Amantes De La Croix)
của Sr. Marie Thiên-Nga VÕ THỤY
b. Ý nghĩa của ngôn ngữ thập giá
- Thập giá đối lập với sự khôn ngoan của con người: Đối với thánh Phaolô, Tin Mừng là “sự rao giảng về thập giá” (c.18), và lời rao giảng này (nguyên văn là “lời nói”) là một “sự điên rồ”. Điên rồ, vì thập giá công bố quyền năng của Thiên Chúa tại nơi mà sự khôn ngoan của con người chỉ có thể thấy sự bất lực và thất bại. Điên rồ, vì thập giá loan báo rằng Thiên Chúa hiện diện nơi con người không thể nào cảm nhận được. Lời rao giảng về thập giá công bố về Thiên Chúa điều trái ngược với tất cả những gì con người tưởng tượng hay hiểu biết về Ngài! Vì vậy, thập giá chống lại sự khôn ngoan của con người (c.19), hiểu ở đây như mọi nỗ lực triết học hay tôn giáo mà qua đó con người cố vươn tới Thiên Chúa, và do đó, tự cho mình là nền tảng. Nhưng, xa cách Thiên Chúa, sự khôn ngoan của con người chỉ biến Thiên Chúa thành hình ảnh cho khát vọng của chính mình, và vì thế nó bị loại bỏ (c.20). Dù con người có đầy đủ điều kiện để nhận biết Thiên Chúa, họ vẫn tỏ ra phản loạn khi tự khẳng định mình trước mặt Thiên Chúa và không nhìn nhận Ngài: “họ đã không nhận biết Thiên Chúa” (c.21). Thập giá làm sụp đổ mọi tham vọng của con người và vạch trần bế tắc của tri thức: thập giá, là sự cứu độ qua sự điên rồ của lời rao giảng, cho con người thấy sự bất lực trong việc nhận ra Thiên Chúa đích thực khi họ chỉ dựa vào sự khôn ngoan của mình. Nó đánh sập các công trình triết học và tôn giáo. Lời rao giảng thập giá bị từ chối bởi người Do Thái, những người đòi dấu lạ quyền năng của Thiên Chúa, và bởi người Hy Lạp, những người nhốt Thiên Chúa trong hệ thống lý trí (c.22). Nỗ lực cứu độ của cả hai phía đều bị kết án. Tất cả nhân loại, Do Thái và Hy Lạp, đều được liên kết trong thái độ phản kháng trước Thiên Chúa.
- Thập giá là một điều gây vấp ngã: Từ đó, lời rao giảng về Đấng bị đóng đinh là cách Thiên Chúa chọn để phá vỡ những bức tường mà người Do Thái và Hy Lạp đã dựng nên, mỗi người theo cách riêng, chống lại Thiên Chúa. Với người Do Thái, thập giá là một sự vấp phạm, một dấu chỉ bị nguyền rủa (x. Gl 3,13). Đấng Messia bị đóng đinh làm sụp đổ niềm hy vọng được cứu khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Với người Hy Lạp, đó là một sự điên rồ xét theo lý trí. Sứ điệp thập giá cũng gây sốc không kém với họ. Thánh Phaolô đã vấp phải triết học của họ, vì chấp nhận thập giá đòi hỏi một cuộc hoán cải triệt để. Nhưng tư tưởng ngoại giáo không chấp nhận bất kỳ sự can thiệp nào của Thiên Chúa có thể làm lung lay luật lý trí[1] (các định lý của suy luận con người). Điều đó là một sự vấp phạm và điên rồ đối với tất cả (c.23). Tuy nhiên, lời rao giảng ấy “kêu gọi” cả Do Thái và Hy Lạp nhìn nhận hiệu quả cứu độ của thập giá (c.24). Và thánh Phaolô kết luận: “Điều điên rồ của Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn loài người” (c.25); trong “sự điên rồ”, Thiên Chúa khôn ngoan hơn, và trong sự yếu đuối, Ngài mạnh mẽ hơn loài người. Ngôn ngữ thập giá tạo nên một sự tương phản rõ rệt giữa sự khôn ngoan của thế gian và sự điên rồ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô không hề đưa ra cho các tín hữu đầu tiên một ngôn ngữ tôn giáo dễ tiếp nhận để diễn giải cái chết của Đức Giêsu (như một cái chết hy sinh hay cái chết của người công chính). Ngài chọn một ngôn ngữ phi tôn giáo, giữ nguyên biểu tượng khủng khiếp của cực hình. Mục đích là xây dựng sự hiệp nhất của các tín hữu dựa trên một biểu tượng bị nguyền rủa: cây thập tự.
- Thập giá là lời của sự phục sinh: Thập giá của Đức Kitô mặc khải một Thiên Chúa khác hẳn, một Thiên Chúa “toàn khác”. Nó khẳng định rằng Thiên Chúa tự mạc khải trong chính những gì hoàn toàn đối lập với hình ảnh phổ biến về Ngài: cái chết của một người bị đóng đinh, thất bại hoàn toàn. Không phải là cái chết oanh liệt của một anh hùng trên chiến trường, mà là cái chết ô nhục của một tội phạm, một đời sống thất bại. Một sự điên rồ thật sự, một điều gây vấp ngã theo cách nhìn của con người. Tuy nhiên, cuối cùng, lời của thập giá không phải là lời của sự chết mà là lời của sự phục sinh: ngay giữa những gì giết chết và làm con người chết đi, lời thập giá khắc ghi một lời sống và hy vọng – lời ấy Thiên Chúa đã làm cho trở thành hiện thực khi làm cho Đấng bị đóng đinh sống lại từ cõi chết. Và thánh Phaolô nhận ra, chính trong đời sống của cộng đoàn Côrintô, một minh chứng sống động cho nghịch lý ấy, cho sự điên rồ của lời rao giảng Kitô giáo: vì Hội Thánh tại Côrintô là sự quy tụ của những người hèn mọn, yếu đuối, bị khinh chê, nhưng lại được Thiên Chúa chọn, gọi và yêu thương (1Cr 1,26-31), và do đó, Hội Thánh biểu lộ cho thế gian thấy ân sủng cứu độ – ơn gọi dành cho con người bất chấp thân phận và hành vi của họ, bày tỏ một Thiên Chúa yêu thương vô điều kiện, vượt mọi thước đo trần thế.
Cái chết của Chúa Kitô trở thành một chủ đề căn bản trong việc biện hộ đức tin. Lời rao giảng về thập giá luôn bao gồm thành phần thứ hai của sự đối nghịch quen thuộc – đó là sự phục sinh, điều thực ra có tính ưu tiên về mặt logic: Đức Kitô phải chết, bởi vì Ngài là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết; rao giảng thập giá cũng là loan báo sự phục sinh. Trong lãnh vực công chính và thánh thiện, đời sống chúng ta đã chết đối với tội lỗi, nhờ được kết hiệp với cái chết của Đức Kitô. Chúng ta được thông phần vào việc sát tế Chiên Vượt Qua và mừng lễ Vượt Qua vĩnh viễn (1Cr 5,7-8). Chúng ta được thông dự vào cái chết của Đức Kitô qua những bách hại, sỉ nhục, khổ đau – đó là số phận của các Kitô hữu, đặc biệt là các Tông Đồ (1Cr 4,9-13; 2Cr 4,7-10; 2Cr 6,4-10; 2Cr 11,23-29; Rm 8,35-36). Họ mang nơi thân mình cái chết của Đức Kitô để sự phục sinh của Ngài được tỏ hiện trong thế giới Kitô giáo (2Cr 4,10-11.15).
Mọi phát biểu và công thức thần học – kể cả liên quan đến thập giá – đều có một nguồn gốc lịch sử và gắn liền với tiến trình xã hội-lịch sử. Thánh Phaolô nói về cuộc đóng đinh như một biến cố lịch sử vừa “gây vấp ngã và lố bịch”. Ngôn ngữ đó tất yếu sẽ tạo ra phản ứng nơi con người đối mặt với thập giá. Theo thời gian, khi thần học Hội Thánh phát triển, những khẳng định Kinh Thánh về sự giao hòa được diễn giải. Nhiều mô hình khác nhau được đưa ra để giải thích ý nghĩa của câu “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta”, tùy theo bối cảnh văn hóa. Cái chết của Đức Kitô trên thập giá vì tội lỗi được trình bày trong Tân Ước dưới nhiều hình thức. Và khẳng định “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta” mang chiều kích trọn vẹn hơn tất cả các mô hình về sự hòa giải và cứu chuộc. Theo hướng này, chúng ta sẽ tiếp tục triển khai thần học về thập giá.
[1] P. WELLS, De la croix à l’Evangile de la croix, Edition Excelsis, 2007, p. 20
(Còn tiếp)