Hình trích từ Tư Liệu Hội dòng
Cha Pierre de Sennemand sinh khoảng năm 1643[1] tại giáo phận Limoges nước Pháp. Ngài được đào tạo trong chủng viện Xuân Bích[2]. Ngài đã sang làm việc tại Canada trong vòng 10 năm trước khi trở về Pháp gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Ngày 18/01/1693, ngài lên đường sang Viễn Đông, dừng chân một thời gian tại Xiêm La và đầu năm 1696, ngài đến Đàng Trong, tại Hội An. Ngài quyết định ở lại làm việc truyền giáo nơi đây và vùng phụ cận.[3]
Năm 1700, nhà chúa Minh Vương Nguyễn Phước Chu ra lệnh cấm đạo[4]. Sau khi 3 cha dòng Tên và 2 cha thừa sai Pháp bị bắt tại kinh đô Huế, quân lính đến Hội An. Tại đây, 2 linh mục bị bắt là cha De Sennemand và cha Fonseca, một linh mục triều người Macao. Cả 2 cha đều bị giải về Huế. Sau đó, những kẻ bắt đạo vào Qui Nhơn và Nha Trang.
Cha Sennemand kể lại:
« Ngay khi bắt được các cha, người ta liền giam vào các nhà tù khác nhau chung với quân trộm cắp, gông đeo cổ và xiềng đeo chân, bị một đội lính thay phiên nhau canh gác đêm ngày. […] Có vài cha quyết định xin nhà vua cho ra khỏi xứ Đàng Trong vì thấy không thể ở lâu mãi trong tù được, hoàn toàn vô ích cho các giáo hữu và không hy vọng nhà vua thay đổi thái độ. Nhưng vài cha khác lại phản đối, nói rằng : nếu các cha bỏ đi thì còn gì là đạo Chúa, không thể cứu vãn được, như ở Nhật Bản vậy. Các cha còn thêm rằng dù ở trong tù, người ta vẫn có thể giúp đỡ đạo Chúa và phục vụ giáo hữu được rất nhiều và sau cùng, con tim nhà vua nằm trong tay Thiên Chúa là Đấng có thể thay đổi được. […]
Còn về nguyên nhân các cuộc bắt đạo này, chúng tôi chẳng biết gì chắc chắn. Chúng tôi biết rõ rằng các sư sãi thường xuyên ca thán với nhà vua rằng chùa chiền của họ gần như bị bỏ hoang. Chúng tôi còn biết rõ rằng nhiều quan lại cũng hay kể cho nhà vua chuyện Nhật Bản [cấm đạo]. Chúng tôi cũng biết nhà vua là người rất sùng đạo Phật. Nhưng để biết chính xác nguyên nhân cuộc bách hại thì chúng tôi không hề biết chút nào. »[5]
Cha Sennemand ở cùng nhà tù với cha Cappony, thừa sai Pháp bị bắt tại Huế. Cha Cappony nói rằng nhà tù các ngài là nhà tù khổ cực nhất, « lính tráng thì vô lễ, thô kệch và không ngừng đòi tiền »[6]. Cha kể về đời sống trong tù rằng :
« Nhà tù chúng tôi rất khắc nghiệt. Chúng tôi không được phép đi vệ sinh một mình, luôn có một người lính dẫn chúng tôi ra bờ sông, mọi người đều nhìn thấy. Điều phiền hà nhất là chính các bà các cô cũng chẳng xấu hổ mà đến gần chúng tôi để đi vệ sinh như chúng tôi vậy. Chúng tôi ngủ trên một manh chiếu, ngồi ăn trên đất và phải chống trả với chấy và chuột. Khi thấy chuột bò lên người tôi, tôi lui sang một chỗ khác hay lấy gậy đuổi chúng đi, làm bọn lính gác tù lại phá lên cười. Thói quen ở đây là chia mỗi đêm ra thành 5 giờ, mỗi đêm 5 người lính canh, mỗi người một giờ[7]. Khi hết giờ, người lính này đánh thức người lính kia dậy, chuyển trao các tù nhân, vũ khí và các thứ khác. Để biết giờ, người ta dùng một cái tách nhỏ bằng đồng có một lỗ nhỏ, khi cái tách chìm xuống nước là giờ đã qua. »[8]
Hai cha tù nhân ở dưới quyền ông quan tên là Ông Tả Lộc. Trước đây, cha Cappony đã chữa bệnh cho một người con trai của ông quan này. Ít lâu sau, cha được phép rời khỏi nhà tù, dựng một căn nhà nhỏ trong mảnh đất của ông đội trưởng canh giữ cha, đêm ngày không còn lính đến canh nữa.
Khoảng 5 hoặc 6 tháng sau, cha Sennemand được phép ra ở chung với cha Cappony. Căn nhà cột gỗ, vách đất, mái rơm của 2 cha rộng chừng 4 hay 5 thước, có 2 phòng riêng, một nơi làm bếp và một phần làm chỗ tiếp khách. Hai cha vẫn phải đeo xiềng ở chân, nhưng nhẹ hơn. Hai cha được phép dâng thánh lễ, viết thư từ gửi đi, tiếp người đến xin thuốc chữa bệnh phần xác hay phần hồn. Cha Sennemand cho biết :
« Nếu người ta bỏ gông cho chúng tôi hay ban ân huệ nào, thì chỉ là do đặc ân của các quan, còn nhà vua chẳng hay biết chuyện, vì vua vẫn tin rằng chúng tôi đang ở trong tù, cổ đeo gông to và chân đeo xiềng nặng. Nếu chúng tôi phải đi đâu đó một chút vì các việc bất thường, trừ ra việc cho ông đội trưởng hay cho quan lớn, phải có một hay hai người lính đi kèm, chúng tôi phải đi thuyền, vì sợ người ta thấy chúng tôi không đeo gông và nếu chuyện đến tai nhà vua thì sẽ gây khó khăn cho ông đội trưởng và ông quan lớn. »[9]
Ngày 07/08/1702, cha Sennemand và các cha khác được trả tự do. « Cha lui về ở nhà một thầy giảng cũ nằm tận phía cuối kinh thành, gần các ngọn núi. Nơi này chẳng có nhiều giáo hữu, từ đó tới cung điện nhà vua ở giữa kinh đô là gần một dặm đường. »[10]
Cha Sennemand sẽ sống tại Huế cho đến khi qua đời.
Ngày 20/01/1712, tức 10 năm sau khi ra tù, cha viết cho Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI một lá thư, trình bày như sau :
« Trong 6 thừa sai đã ở trong tù tại kinh đô, con là người duy nhất còn sống, vì 5 cha kia đã qua đời[11]. Dù vậy, kinh đô này là nhà tù của con. Bởi vì con luôn sống trong sự nguy hiểm, dù ở lại hay ra đi. Thái độ của nhà vua vẫn luôn như vậy đối với các giáo hữu như lúc khởi đầu cuộc bắt đạo. »[12]
Theo cha Sennemand, nhà vua cấm đạo vì những lý do sau :
1, Vua rất sùng đạo Phật.
2, Vua nghi kỵ đạo công giáo do không hiểu rõ. Ví dụ : tín điều một Chúa Ba ngôi, cấm thờ kính ông bà và cấm tục đa thê.
3, Vua sợ khi bổn đạo đông thì người Tây phương đến xâm lăng đất nước.
Cha Sennemand tiếp tục trình Đức Giáo Hoàng rằng :
« Phần các quan, ngay cả các quan ngoại giáo, dù có lệnh cấm đạo, vẫn dâng nến cho chúng con để xin cầu nguyện cho họ lúc họ bị bệnh. Các ông quan bắt đạo tàn ác nhất cũng hành động như vậy, như ông quan chú ruột của nhà vua[13]. Ông này […] đã cho phá đổ các nhà thờ, tịch thu tài sản các giáo hữu và bách hại các thừa sai. Nhưng 5 hay 6 tháng sau, ông ta ngã bệnh nặng và các thầy thuốc nhà vua gửi tới không còn biết làm gì được nữa, lúc đó ông ta bèn sai một thuộc hạ cùng với vài người khác đem những cây nến to đến xin con cầu nguyện cùng Chúa cho ông. Ông hứa nếu mạnh khỏe trở lại, ông sẽ cho tái dựng các nhà thờ mà ông đã cho phá đổ, trả lại tất cả những gì ông đã lấy của các giáo hữu và sẽ bảo vệ họ như ông đã bách hại họ vậy. Nhưng Chúa chỉ vui lòng nhận thiện chí của ông ta mà thôi. »[14]
Năm 1714, nhà chúa lại ra lệnh bắt đạo. Lúc bắt đầu xảy ra cuộc bách hại, cha Sennemand là thừa sai người Pháp duy nhất tại Huế.
« Khi lửa bách hại châm ngòi, có lẽ Thợ Đúc là nơi ẩn náu khá thuận lợi cho các vị tuyên xưng đức tin thà thấy mình bị tướt đoạt hết của cải còn hơn là chối bỏ Chúa Giêsu Kitô. Một trong các vị đã mua một khu đất hoang tại Thợ Đúc với một khoảng tiền khá rẻ, và vị đó đã dựng lên tại đây một nhà nguyện nhỏ để các tín hữu họp mặt. Cha De Sennemand thấy nơi này rất tiện cho thời bắt đạo, ngài đã liên hệ với vài người có lòng quảng đại để xây dựng tại đây một ngôi nhà thờ nhỏ tồn tại đến nay, và là nơi ở cho vài trinh nữ, với một bệnh xá nay đã biến mất. Cha De Sennemand đã cho các cơ sở này 500 quan, còn các người khác 400 quan. »[15]
Vào kỳ bắt đạo, cha Sennemand « hoạt động rất nhiệt thành và tiếp xúc với các quan lớn triều đình để họ đối xử tốt với giáo hữu. Cha dùng tiền riêng để nuôi các tù nhân và mua quà biếu xén, cha được mọi người yêu mến và kính trọng. Cha đã viết một bản tường trình lên nhà vua về tất cả những bạo hành mà người ta đã làm với giáo hữu làng Tân An, với hy vọng nhà vua sẽ cảm thương. Nhưng dù đã nhận quà cáp rất quý giá của cha, chẳng ai dám dâng lên vua bản tấu trình. »[16]
Giữa lúc đạo bị bách hại, cha Heutte là một thừa sai người Pháp đặt chân tới kinh thành Huế. Chuyện như sau : năm 1714, có 3 con tàu buôn Hòa Lan bị bão đánh chìm gần đảo Hoàng Sa, 17 người bị chết, còn 87 người thì vào được Nha Trang. Cha Heutte (ở Nha Trang từ năm 1707) được các quan gọi làm thông ngôn, may là nhiều người Hòa Lan biết tiếng Pháp. Khi hay tin, nhà vua muốn gặp các người Hòa Lan này, do đó họ được dẫn ra triều đình Huế cùng với cha Heutte. Ngày 21/06/1715, họ đến nơi. Các người Hòa Lan ở lại Huế vài ngày rồi trở ra Hội An. Đầu năm sau, nhờ một con tàu người Hoa, họ sang Batavia (Nam Dương).
Phần cha Heutte, cha ở lại Huế tại Phủ Cam cho đến khi từ trần (1719).
Việc truyền giáo đụng chạm tới những phong tục tập quán có tính tôn giáo địa phương là chuyện không thể tránh được. Năm 1717, cha Sennemand đã gặp một trường hợp cụ thể như sau :
« Có hai người Công giáo mắc nợ nhau. Sau khi sinh sự lôi thôi, họ thưa kiện nhau. Quan bắt đặt tay lên bàn thờ « Chúa Bà » mà thề như người lương dân. Họ thể thế này khi đứng trước bàn thờ, họ uống một miếng huyết gà và nói : « Thưa Chúa Bà, nếu tôi sai lỗi, tôi chết ngay. » Một người bối rối đến hỏi cha De Sennemand có nên thề cách đó không ? Vì cha J.B. Sanna[17] dòng Tên bảo thề được, miễn là lấy lại được nợ. Cha De Sennemand cho rằng thề như thế là tiếp tay ma quỉ không nên. Anh ta thì tiếc của, đi hỏi lại cha Sanna, cha nói : « Được, cứ thề đi. » Và anh ta thề. »[18]
Ngày 27/09/1719, cha Heutte trút hơi thở cuối cùng tại Phủ Cam. Trước đó 3 ngày, được tin cha đau nặng, cha Sennemand đã đến thăm và ban bí tích xức dầu cho cha.
Sau khi cha Heutte mất, [không biết bao lâu sau] cha Sennemand tới cư ngụ tại Phủ Cam. Vì « cha De Sennemand thấy quá nhiều người đến thăm ngài tại Cồn Vua (Soi-ngua) nên lui về ở Phủ Cam hiện đang không có thừa sai nào sau khi cha Heutte qua đời ».[19]
Lúc này, cha Sennemand không còn trẻ nữa. Nhưng ngài được bao nhiêu tuổi ? Trong một lá thư viết năm 1721 gửi các cha ở chủng viện Hội Thừa Sai tại Paris, Đức cha phó Labbé có nói rằng : « Cha De Sennemand và tôi, mỗi người chúng tôi đều đã 75 tuổi rồi. »[20] Thế nhưng, vào năm 1729, cha Langellerie là một thừa sai Pháp mới đến và đang sống tại Thợ Đúc, lại báo tin rằng : « Cha De Sennemand vẫn còn sống, đang ở đây tại kinh đô, mặc dù đã 86 tuổi. »[21]
Cha Sennemand đã về sống tại Phủ Cam như nói ở trên. Nhưng « nhà thờ Phủ Cam, dù khá hẻo lánh, vẫn chưa vừa đủ cho cha De Sennemand vì cha chạy trốn các cuộc thăm viếng. Chính vì vậy, cha mua một khu vườn gần một cánh đồng ngập đầy mồ mả, cha dựng tại đó một nhà thờ. Cha từ trần trong nhà thờ này, nhưng cha được an táng tại Thợ Đúc, trong nhà thờ của các trinh nữ. »[22]
Cha Sennemand từ trần ngày 25/01/1730, thọ 87 tuổi.[23]
*
Linh mục làm lễ an táng cha Sennemand là cha Flory[24]. Cha Flory đã viết một bài khá dài về cha Sennemand.
Chứng từ của cha Flory ngày 22/07/1730:
(Thư gửi các cha giám đốc chủng viện Hội Thừa Sai tại Paris).
« Nội dung lá thư này chỉ liên quan tới cha De Sennemand mà Chúa đã vui lòng gọi về với Chúa ngày 25 tháng Giêng năm nay[25], một ngày tuyệt vời đối với cha De Sennemand. Bởi vì, khi đến đây truyền giáo, để phân biệt với một thừa sai khác cũng tên Phêrô như ngài[26], ngài đã chọn tên Phaolô, và người xứ Đàng Trong chỉ biết ngài duy nhất dưới tên gọi này.
Vì đã hơn 3 năm rồi không gặp ngài, tôi sắp sửa đi thăm ngài, nghĩ thầm rằng chắc ngài chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nhưng cùng lúc đó, tôi nghe tin ngài vẫn giảng đạo, dạy giáo lý và ban các bí tích, với tất cả sự năng nổ và nhiệt thành của một thừa sai khỏe mạnh. Thế nên tôi nghĩ nên hoãn chuyến đi thăm của mình vì nhu cầu các giáo hữu ở những nơi khác lại cấp bách hơn. Nhưng khi tôi vừa mới đi xa được mấy ngày đường thì tin ngài qua đời đến với tôi nơi tôi vừa tới. Lúc đó, tôi không thể rời bỏ một số rất đông các giáo hữu nơi đây cả năm chưa xưng tội để quay trở lại. Bởi vậy, […] tôi tiếp tục sứ vụ của mình hơn 3 tháng trời. Sau đó, tôi trở lại làm lễ an táng cho ngài bởi vì các giáo hữu đã cẩn thận giữ gìn xác vị mục tử của họ với cả sự tín thành và chu đáo, để chờ tôi đến. Lễ tang diễn ra thật long trọng và oai nghi. Người ta tính được hơn 10.000 giáo hữu đã đến tiễn đưa ngài. Ngay cả người ngoại đạo cũng cảm nhận được gương sáng của cha De Sennemand đến nổi không thể không ca ngợi người quá cố cũng như khen ngợi tình thương và sự nhiệt tâm của các giáo hữu trong dịp này. […]
Tất cả những điều trên chỉ là chuyện nhỏ so với những công trình xây dựng và giúp đỡ mà cha De Sennemand liên tục tài trợ cho người nghèo cũng như những bệnh xá ngài lập tại nhiều nơi. Đó là chưa kể tới việc ngài dùng tiền riêng để bảo trì và sửa chữa những nhà thờ xứ ở làng quê. Nếu tính đến khoản chi tiêu hàng năm của ngài và phần còn lại, chẳng thể đủ cho ngài sống trong một năm nữa. Thế nên, thật đáng ca tụng về niềm tin của ngài nơi Đấng Quan Phòng khi với chút ngân khoản đã thực hiện bao công trình, hơn là trách ngài đã muốn tích trữ tiền bạc. Quả thật, ngài tiết kiệm mọi thứ, ngài sống rất nghèo; việc ăn uống, nhà cửa và áo quần luôn luôn rất tồi tệ; ngài làm vậy để còn có phương tiện dồi dào lo cho công việc bác ái. Ngài rất hy sinh phạt xác và khắc khổ đối với chính mình, chẳng bao giờ muốn gia giảm điều gì. Ngài thường xuyên đi bộ trong các chuyến đi đường dài và gian nan. Lúc ở nhà, chẳng khi nào ngài ở không, luôn làm việc ruộng vườn hay đọc sách. Nhưng ruộng vườn mới là việc thường xuyên của ngài, người ta hay thấy ngài cầm cuốc hơn là cầm sách. Bề ngoài, ngài như là người tàn tật, vì đôi chân và bàn chân sưng lên một cách lạ thường, đến nỗi các người Đàng Trong xem như một phép lạ, khi ngài có thể sống rất thọ trong tình trạng đó, từ gần 20 năm trời. Chân sưng to cộng thêm sức khỏe của ngài, mỗi khi chân bớt sưng thì ngài lại bị bệnh và phải khép mình trong phòng. Thuốc thang cho ngài chỉ là nước lã tinh khiết, không dùng bất kỳ thức ăn nào và không cho phép ai vào phòng mình, đôi khi kéo dài hơn 8 ngày trời. Sau đó, ngài ra khỏi phòng, mạnh khỏe và đầy sức sống, ăn uống ngon lành và lại tiếp tục công việc như thể không hề có sự gì xảy ra.
Ngài rất hay bị ngã vì đường xấu và vì sức yếu, nhưng ngài chỉ biết cười và vui vẻ thấy người ta chế giễu mình. Một ngày nọ, ngài bị trợt chân ngã xuống một vũng nước lớn, ngài phải chịu ở đó gần nửa tiếng đồng hồ chờ chú học trò trẻ đi theo ngài tìm được người tới kéo ngài lên. Lúc đó, chẳng ai dám cười vì tưởng ngài đã chết, trái lại họ càng tỏ ra cảm thương ngài. Khi lên được, ngài khen thưởng những ai đã cứu ngài và bắt đầu giảng đạo cho tất cả những người hiện diện. Người ta không thể không nhìn nhận rằng có một điều gì đó siêu phàm nơi chuyện này.
Ngài rất quyết đoán trong việc ngài làm, cứng rắn và rất kiên nhẫn khi có điều không may hay nghịch cảnh xảy đến. Thiên Chúa đã ban cho ngài được dự phần vào cuộc bách hại lớn năm 1700, chỉ một thời gian ngắn sau khi ngài đến đất nước này. Ngài bị bắt và bị dẫn tới triều đình, cổ đeo gông và bị nằm tù rất lâu. Có thể nói rằng ngài không bao giờ được hoàn toàn trả tự do. Nếu sau này người ta cho phép ngài đi đây đi đó thì cũng phải có người bảo lãnh. Một cha dòng cận thần nhà vua[27] đã muốn xin cho ngài được tự do, nhưng ngài không bao giờ chấp nhận, bởi vì trong phán quyết của nhà vua có ghi rằng ngài phải vâng phục không được giảng đạo nữa. Không tuân phục lệnh vua thì chớ, ngài còn phản đối rằng ngài chỉ đến nơi này để giảng đạo và ngài thà chết hơn là bỏ rơi ơn gọi của mình. Chính vì vậy, ngài bị giữ trong tù. Nhưng ít lâu sau, khi cơn điên cuồng bắt đạo lắng xuống, ngài được tự do hơn để thi hành sứ vụ như cha dòng kia đã muốn dùng uy tín của mình để giúp ngài thoát khỏi nhà tù.
Đức cố giám mục Bugie [Đức cha Pérez], Đại diện Tông tòa giáo phận Đàng Trong, có lòng quý mến và kính trọng rất lớn đối với vị đồng nghiệp thân thương này đến nỗi Đức Cha thường gọi ngài là một vị thánh sống. »[28]
[1] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques, tome II, (1728-1771), Paris, Téqui, 1924, tr. 1. (Viết tắt : Cochinchine II).
[2] A. Launay, Cochinchine II, tr. 26.
[3] A. Launay, Mémorial de la Société des Missions Étrangères, (2è partie), (Notices bibliographiques 1658-1913), Paris, 1916 : « Sennemand ».
[4] Như mọi thừa sai người Âu khác thời đó, cha Sennemand gọi chúa Nguyễn là vua.
[5] A. Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques, tome I, (1658-1728), Paris, Téqui, 1923, tr. 441. (Viết tắt : Cochinchine I).
[6] Như trên, tr. 450.
[7] Người Việt thì nói : đêm 5 canh, ngày 6 khắc.
[8] A. Launay, Cochinchine I, tr. 444.
[9] A. Launay, Cochinchine I, tr. 455.
[10] A. Launay, Cochinchine I, tr. 486.
[11] Cha Langlois, cha Cappony, cha Arnedo, cha Candone và cha Belmonte.
[12] A. Launay, Cochinchine I, tr. 536.
[13] Chữ « l’oncle » không rõ nghĩa đối với người Việt vì có thể hiểu là : bác, chú, cậu, dượng.
[14] A. Launay, Cochinchine I, tr. 537-538.
[15] A. Launay, Cochinchine I, tr. 565. (Cha Nguyễn Văn Hội đã thuật lại đoạn sử liệu này trong Lịch Sử Giáo Phận Huế Qua Các Triều Đại Vua Chúa 1596-1845, xuất bản năm 1993, tr. 108).
[16] A. Launay, Cochinchine I, tr. 564.
[17] Cha Sanna, linh mục dòng Tên, người Ý, làm ngự y trong triều đình chúa Nguyễn, qua đời năm 1726 tại Hội An.
[18] Nguyễn Văn Hội, sđd, tr. 111-112. (Chuyện đầy đủ chi tiết được cha A. Launay xuất bản trong Cochinchine I, tr. 602-603.)
[19] A. Launay, Cochinchine II, 1924, tr. 39.
[20] A. Launay, Cochinchine I, tr. 593. (Như vậy, cha Sennemand đã sinh năm 1646).
[21] A. Launay, Cochinchine II, tr. 1. (Như vậy, cha Sennemand sinh năm 1643).
[22] A. Launay, Cochinchine II, 1924, tr. 39.
[23] Theo cha Adrien Launay, cha Sennemand sinh khoảng năm 1660 (Mémorial) ; theo Đức cha phó Labbé, năm 1646 ; theo cha Langellerie, năm 1643. Trong lúc chờ đợi khám phá ra tài liệu chứng minh năm sinh chính xác của cha Sennemand, chúng tôi tạm thời tin theo cha Langellerie.
[24] Cha Flory là thừa sai người Pháp, tới Đàng Trong năm 1712, từ trần tại Thợ Đúc ngày 02/03/1732.
[25] Ngày 25 tháng Giêng là ngày lễ thánh Phaolô trở lại.
[26] Tức cha Phêrô Langlois, chết trong nhà tù Huế ngày 30/07/1700.
[27] Cha dòng Tên Arnedo. Cha này chỉ bị giam giữ một ngày trong cuộc bắt đạo năm 1700, vì cha là nhà toán học tại triều đình (xem A. Launay, Cochinchine I, tr. 441).
[28] A. Launay, Cochinchine II, tr. 39-41.
Nt. Catarina Dương Thị Thu Trang