(Is 55:10-11; Mt 6:7-15)
Trong đời sống thường ngày, chúng ta thường sử dụng lời nói để truyền tải nội dung của một sứ điệp mà chúng ta muốn người khác biết và hiểu. Đồng thời, chúng ta mong cho sứ điệp chúng ta truyền tải ở lại trong đời sống của người nghe. Đây chính là nội dung của bài đọc 1 hôm nay. Ngôn sứ Isaia ví lời Chúa như “mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất” (Is 55:10), và mục đích của mưa với tuyết sa xuống từ trời là “làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn” (Is 55:10). Hình ảnh bánh ăn sẽ được tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Cùng cách thức ấy, lời phát xuất ra từ miệng của Đức Chúa “sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55:11). Nhưng chúng ta tự hỏi: kết quả, ý muốn và sứ mạng của lời Đức Chúa là gì khi xuất phát từ miệng Ngài? Điều này chúng ta sẽ được giải đáp trong bài Tin Mừng, đó là đời sống thân mật với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện.
Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện. Đây là một trong ba việc đạo đức chúng ta phải thực hiện cách đặc biệt trong Mùa Chay. Chúng ta có thể chia “bài học về cầu nguyện” của Chúa Giêsu ra ba phần: phần 1 là cách thức cầu nguyện (Mt 6:7-8); phần 2 là nội dung của cầu nguyện (Mt 6:9:13); và phần 3 là kết quả của cầu nguyện (Mt 6:14-15).
Cách thức cầu nguyện: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6:7-8). Cách thức cầu nguyện của chúng ta phải khác với những người dân ngoại, cụ thể là phải ngắn gọn và đi vào trọng tâm. Nhiều người trong chúng ta hiểu sai hoặc giải thích sai việc cầu nguyện là chúng ta không nói nhiều vì “Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì.” Nhiều người còn cho rằng trong cầu nguyện chúng ta chỉ lắng nghe mà không cần phải nói gì. Đây không phải là ý của câu Lời Chúa này. Ý của câu Lời Chúa này là: trong cầu nguyện, điều quan trọng là tuyên xưng quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa vì Ngài biết hết mọi sự và không có gì là không thể đối với Ngài. Chính thái độ vững vàng trong đức tin này khi cầu nguyện làm chúng ta nhận ra rằng, dù lời nói của chúng ta không diễn tả hết những gì chúng ta xin, Thiên Chúa vẫn biết rõ và sẽ ban cho chúng ta. Hơn nữa, câu Lời Chúa này cũng có ý nhắc nhở chúng ta về việc chỉ nói những gì mà con tim của chúng ta muốn nói với Chúa vì cầu nguyện không phải là “nói về Chúa cho Chúa nghe,” nhưng là “nói về mình cho Chúa nghe.” Cầu nguyện không mang lại gì cho Chúa, nhưng mang lại ơn cứu độ cho chúng ta [Kinh Tiền Tụng IV]. Vì vậy, cầu nguyện phải là sự hiệp nhất mang tính “cá vị và chân thành” với Thiên Chúa.
Nội dung cầu nguyện chính là Kinh Lạy Cha. Đây là ví dụ của việc cầu nguyện “không lải nhải như dân ngoại”: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6:9-13). Chúng ta có thể chia nội dung của lời cầu nguyện này thành hai phần: phần đầu nói về việc “tôn vinh Danh Chúa” và phần hai nói về việc “thánh hoá con người.” Đây là kiểu mẫu cho tất cả các lời cầu nguyện. Câu đầu tiên của lời cầu nguyện nói lên thái độ chúng ta phải có trước khi đến với Chúa [nhất là khi cầu xin]: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời.” Mátthêu dùng từ Abba (“cha”) để bắt đầu lời cầu nguyện. Từ Abba nói lên sự tin tưởng, thân thiện và sẵn sàng ngã vào vòng tay người cha của đứa con thơ. Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nói rằng, cầu nguyện là một cuộc đối thoại đầy yêu thương giữa Thiên Chúa và con người, hay đúng hơn, là sự vui hưởng tình yêu của người con trong vòng tay ấm áp của Người Cha. Hơn nữa, điều làm chúng ta ngạc nhiên trong cầu nguyện đó là dù đây là một cuộc đối thoại yêu thương mang tính cá vị, nhưng lại không mang tính loại trừ vì chúng ta không gọi “Lạy Cha của con,” mà là “Lạy Cha chúng con.” Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, dù lời cầu nguyện của chúng ta có thầm kín và cá vị thế nào, thì cũng không loại trừ người khác. Đây chính là điều giúp chúng ta hiểu tại sao hoa quả của việc cầu nguyện là sự tha thứ, vì chỉ có tha thứ mới mang lại sự không loại trừ người khác.
Liên quan đến nội dung cầu nguyện, chúng ta chỉ tập trung vào phần thứ hai, đó là, thánh hoá con người: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6:11-13). Trong những lời xin này, chúng ta nhận ra ba tương quan căn bản của con người: (1) tương quan với vũ trụ [vật chất] là lương thực [bánh ăn] hằng ngày [chúng ta không loại trừ khả thể nói đến Bí Tích Thánh Thể ở đây]. Chúng ta chỉ xin “đủ cho mỗi ngày.” Điều này nhắc nhở chúng ta tránh thái độ “tham lam” và không thoả mãn với những gì chúng ta có về phương diện vật chất; (2) tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là cảm nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa và sẵn sàng tha thứ cho người khác. Chúng ta thấy ở đây tương quan với Thiên Chúa và tha nhân không tách rời nhau vì chính Chúa Giêsu đã đem giới răn yêu Chúa và yêu người lại với nhau (x. Mt 22:37-40); (3) tương quan với chính mình là được trợ giúp để chiến thắng các cám dỗ và sự dữ. Trong ba mối tương quan này, chúng ta đang cần Thiên Chúa trợ giúp trong mối tương quan nào?
Cuối cùng, bài Tin Mừng nói đến kết quả của cầu nguyện, đó là cảm nghiệm được rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và tha thứ, đồng thời được mời gọi yêu thương và tha thứ cho người khác: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6:14-15). Những lời này là những lời khuyến cáo cho chúng ta. Thiên Chúa luôn tha cho chúng ta khi chúng ta phạm tội, còn chúng ta thì lại không tha thứ cho anh chị em của mình. Có câu nói trong đời rằng: Con người là một hữu thể quảng đại nhất vì nó có thể cho người khác toàn bộ gia tài của mình. Nhưng con người cũng là hữu thể ích kỷ nhất, vì nó không muốn cho ngay cả chỉ một lần tha thứ cho người khác. Hãy tha thứ để được thứ tha; hãy tha thứ để được bình an; và hãy tha thứ để được “ngủ ngon.”
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB