(St 16:1-12.15-16; Mt 7:21-29)
Theo phong tục thời Ápram, khi một người không có con thì người vợ cho người nữ tỳ của mình ăn ở với chồng. Người con mà người nữ tỳ sinh ra sẽ thuộc về người vợ. Đây là điều chúng ta nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Không có con là một nỗi tủi nhục nhất cho người phụ nữ vì đây là dấu hiệu không được Thiên Chúa đoái thương, chúc lành. Bà Xarai rơi vào tình cảnh này. Bà trao người nữ tỳ là Haga để “đi lại” với Ápram, “may ra nhờ [Haga] mà [bà Xarai] sẽ có con. Điều đáng để chúng ta lưu ý là thái độ của Xarai và Haga sau khi “thấy mình mang thai” (St 16:4). Đối với Haga, thay vì đem lòng “tuân phục” và theo luật thời đó là người con thuộc về chủ mình, thì Haga lại “coi khinh bà chủ.” Haga quyết định dành cho mình những gì [theo luật] không thuộc về mình. Còn về phía bà Xarai, bà cảm thấy bị xỉ nhục, nhưng có lẽ cũng hơi “quá đáng” khi “hành hạ Haga khiến nàng phải trốn bà” (St 16:6). Chúng ta cũng đã thấy sự tranh chấp xảy ra giữa Ápram và Lót. Thái độ của Xarai và Haga cũng thường xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Nhiều khi chúng ta cũng tranh chấp những gì không thuộc về mình, hoặc khi không đạt được những gì mình phải có, chúng ta “hành hạ” người khác để họ “phải bỏ đi cho khuất mắt” chúng ta. Cuộc sống trở nên êm đẹp khi Haga trở về sống đúng với căn tính của mình. Chi tiết này dạy chúng ta chân lý sau: Mọi tương quan sẽ trở nên xáo trộn khi chúng ta không sống và hành xử đúng với căn tính và ơn gọi của mình. Còn khi mỗi người sống đúng với tương quan mình có, sẽ không có tranh chấp và thù hận.
Bài Tin Mừng hôm nay bao gồm hai phần khác biệt nhưng liên kết chặt chẽ với nhau. Phần 1 (Mt 7:21-23) trình bày về cuộc phán xét cuồi cùng. Phần 2 (Mt 7:24-27), Chúa Giêsu dạy các môn đệ về tầm quan trọng của việc lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành. Bài Tin Mừng kết với phản ứng tích cực của dân chúng trước lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Qua lời giảng dạy của Ngài, dân chúng nhận ra uy quyền và sự khác biệt giữa Ngài với các kinh sự của họ (x. Mt 7:28-29). Chúng ta cùng nhau phân tích chi tiết từng phần hầu rút ra sứ điệp Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay.
Phán xét là một trong bốn đề tài quan trọng và chính yếu của môn cánh chung [trong thần học]. Một cách cụ thể, phán xét là một trong “bốn sự sau” mà mỗi người chúng ta phải đối diện, đó là chết, phán xét, thiên đàng và hoả ngục. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với phán xét trong ngày sau hết. Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xét? Trong Tin Mừng Thánh Mátthêu, có hai đoạn nói về tiêu chuẩn mà dựa vào đó chúng ta sẽ bị phán xét, đó là đoạn trích trong bài Tin Mừng hôm nay và trong chương 25 (31-46). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra tiêu chuẩn mà dựa vào đó chúng ta sẽ bị phán xét như sau: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa!’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!’” (Mt 7:21-23). Qua những lời này, Chúa Giêsu muốn khuyến cáo các môn đệ [chúng ta] rằng tiêu chuẩn để dựa vào đó mọi người bị phán xét không phải là những lời nói văn hoa bóng bẩy [hay những lời cầu nguyện chỉ ở trên môi trên miệng, nhưng lòng thì xa Chúa], nhưng là một cuộc sống đầy tình yêu và công bình. Khi viết những điều này, Thánh Mátthêu muốn khuyến cáo những tín hữu trong cộng đoàn đang có thái độ tự mãn và chắc chắn một cách ngạo mạn mình sẽ được cứu độ dựa vào những chiến công hiển hách của mình [như nói tiên tri, trừ quỷ hoặc làm phép lạ]. Điều này nhắc nhở chúng ta về một cám dỗ mà chúng ta thường gặp phải, đó là làm những việc vĩ đại vì vinh danh mình hơn là vì muốn thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Như vậy, tiêu chuẩn để được vào Nước Trời không hệ tại “loại việc” chúng ta thực hiện, nhưng là thực hiện “bất kỳ loại việc nào, dù có nhỏ bé đến mấy” với trọn cả tình yêu cho Thiên Chúa. Đồng thời xem đó như là cách thức để thi hành thánh ý Ngài.
Trong phần thứ hai, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để kết luận bài giảng của Ngài. Đây là kết thúc thường thấy nơi các thầy dạy [Rabbi] thời đó. Trong dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu nói đến sự tương phản giữa hai loại người: người khôn và người ngu dại. Tiêu chuẩn để phân biệt hai loại người này là sự tương phản giữa “nghe-thực hành” và “nghe-không thực hành”: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7:24-27). Chúng ta thấy, hai loại người này đều có chung một hành động, đó là “nghe lời Chúa Giêsu.” Nhưng chính việc “đem ra thực hành” hoặc “không đem ra thực hành” là thứ phân loại họ thành người khôn hay người ngu dại. Chúng ta thuộc loại nào? Chúa Giêsu đã nói: “Phúc cho những ai lắng nghe lời Ta và đem ra thực hành” (Lc 11:28).
Hai câu cuối cùng (câu 28 và 29: “Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ.”) nói về hiệu quả bài giảng của Chúa Giêsu. Hai câu này chứa đựng một công thức mà Thánh Mátthêu ưa thích, đó là “Khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong.” Công thức này được lặp lại trong các câu 11:1; 13:53; 19:1 và 26:1. Công thức này xuất hiện vào cuối năm phần giảng dạy của Chúa Giêsu để tạo nên cấu trúc Tin Mừng Thánh Mátthêu. Một chi tiết khác trong những lời trên đáng để chúng ta quan tâm là việc Thánh Mátthêu thêm từ “của họ” vào trước từ “kinh sư” [điều không tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô]. Chi tiết này cho thấy trong cộng đoàn của Thánh Mátthêu có các kinh sư, một chức vụ được người Do Thái tôn trọng từ thời Ezra. Chi tiết cuối cùng trong những lời trên là việc Chúa Giêsu dạy như Đấng có uy quyền. Trong thời cổ, uy quyền luôn có nguồn gốc từ việc trung thành với “truyền thống.” Cả Chúa Giêsu và các kinh sư dạy với uy quyền dựa trên truyền thống. Sự khác biệt hệ tại ở việc các kinh sư không trình bày chính mình như những người mạc khải cách trực tiếp thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 7:21). Còn đối với đám đông và cộng đoàn của Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu là người mạc khải trực tiếp thánh ý Thiên Chúa. Đây chính là điều làm cho lời giảng dạy của Ngài khác với các kinh sư. Như vậy, nơi Chúa Giêsu, Ngài không chỉ trung thành với truyền thống, nhưng còn hoàn thành truyền thống với chính sự hiện diện đầy yêu thương của mình. Nếu lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền như vậy, tại sao chúng ta nghe mà không đem ra thực hành? Điều gì ngăn cản chúng ta?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB