
(Kn 18:14-16; 19:6-9; Lc 18:1-8)
Sống trong một xã hội “ồn ào” ngày hôm nay, con người cũng thích sự náo động và những vẻ nhộn nhịp bề ngoài. Một cách cụ thể, khi một người [một nhóm, một tổ chức] làm điều gì, người đó thường “thổi loa báo trước.” Điều này thấy rõ qua sự kiện là con người ngày hôm nay thích đăng tải những gì họ làm [ngay cả những việc rất cá nhân, thầm kín] lên những trang mạng. Họ không thích sự đơn sơ thinh lặng. Bài đọc 1 hôm nay đưa chúng ta về với sự đáng yêu của thinh lặng. Những gì quan trọng nhất trong vũ trụ xảy ra cách thầm lặng, không ai hay biết hoặc lưu tâm. Tác giả sách khôn ngoan cho biết, “khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì lạy Chúa, từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường xông vào giữa miền đất bị tru diệt, mang theo bản án không thể huỷ của Ngài như lưỡi gươm sắc bén” (Kn 18:14). Chính trong sự thinh lặng, Lời Thiên Chúa đã đến để thay đổi vũ trụ từ bản chất và “gìn giữ con cái Ngài bình an” (Kn 19:6). Không những thế, Lời Thiên Chúa còn đồng hành với dân Ngài trong mọi biến cố của cuộc sống, nhất tà biến cố vượt qua để đi vào Đất Hứa. Ngày hôm nay, Thiên Chúa cũng đồng hành với chúng ta trong sự thầm lặng như thế. Chỉ có những tâm hôn yêu thích sự thinh lặng mới có thể nhận ra bước chân Ngài đến, nhẹ như làn gió thoảng. Thật vậy, chỉ trong màn đêm của sự tĩnh lặng mà chúng ta nghe được tiếng Ngài vang vọng trong tận đáy con tim. Ai không yêu mến sự thinh lặng thì sẽ không gặp được Đấng đến trong sự thinh lặng.
Chúng ta đã nghe đoạn Tin Mừng này trong Chúa Nhật tuần XXIX vừa qua. Chúng ta thấy mục đích của dụ ngôn này được nêu ra ngay trong câu đầu tiên: “Khi ấy, Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18:1). Những lời này cho chúng ta biết thính giả của dụ ngôn là các môn đệ Chúa Giêsu và mục đích của dụ ngôn là “để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.” Tại sao cầu nguyện là điều quan trọng đối với người môn đệ Chúa Giêsu? Chúng ta phân tích hai nhân vật trong dụ ngôn để rút ra những bài học cần thiết cho đời sống cầu nguyện của mình.
Trong phần dụ ngôn, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh của người quan toà để ám chỉ về ngày cánh chung. Điều đáng ngạc nhiên ở đây là thái độ “cứng đầu” của người quan toà. Ông là người không sống theo giới răn mến Chúa, yêu người: “Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 18:2). Hay nói cách khác, ông là một người dân ngoại. Dù không sống theo giới răn yêu thương, nhưng sự quấy rầy của bà goá, người đến với ông để đòi sự “công bình.” Chúng ta có thể nói rằng, động lực thúc đẩy ông phân xử cho bà goá không đến từ tình bác ái, nhưng mang tính rất tự nhiên, đó là sợ bị làm phiền (x. Lc 18:4-5). Điều này cho thấy, tự trong bản chất con người có một “tia sáng” của tình yêu [tình yêu hướng về chính mình – sợ bị quấy rầy]. Chi tiết khác chúng ta đáng suy nghĩ là cả hai nhân vật đều sống trong cùng một thành (x. Lc 18:2-3). Chi tiết này cho thấy cả hai có sống trong sự hiệp thông: Hành động của người này ảnh hưởng đến người kia. Nói cách cụ thể, hành động của người quan toà mang lại công lý cho bà goá, và hành động của bà goá quấy rầy ông quan toà. Điều này mời gọi chúng ta phải luôn cẩn thận trong “cách ăn nết ở” của mình. Mỗi lời nói và hành động của chúng ta ảnh hưởng đến người khác.
Đi từ kinh nghiệm của con người, kinh nghiệm của ông quan toà và bà goá, Chúa Giêsu đưa các môn đệ đến một kinh nghiệm cao hơn, đó là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Ông quan toà, dù là người bất chính (x. Lc 18:6), đã đáp lại lời cầu xin của bà goá. Làm sao các môn đệ lại không có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng “chậm giận và giàu tình thương.” Điều này được Chúa Giêsu diễn tả cách đầy yêu thương như sau: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (Lc 18:7-8). Quả thật, Thiên Chúa luôn lắng nghe và đáp lại những gì mà những người tuyển chọn của Ngài kêu xin. Ngài sẽ nhanh chóng minh xét cho họ. Điều kiện cần thiết của người môn đệ khi chờ đợi để được Thiên Chúa minh xét là niềm tin. “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Điều này khuyến cáo chúng ta rằng đừng vội đánh mất niềm tin của mình khi chưa nhận được những gì mình cầu xin. Đời sống cầu nguyện phải được nâng đỡ bởi đức tin sâu đậm. Nói cách hình tượng hơn, đức tin là dầu còn cầu nguyện là tim đèn. Như tim đèn sẽ không cháy lâu nếu không có dầu, thì cầu nguyện sẽ lụi tàn nếu không có đức tin.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
