
(1 Mcb 6:1-13; Lc 20:27-40)
Trình thuật về vua Antiôkhô trong bài đọc 1 hôm nay giúp chúng ta suy gẫm về việc phải sống thế nào cho ý nghĩa. Một cách cụ thể hơn, vua Antiôkhô chỉ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống sau khi đã phải chứng kiến nhiều thất bại trong các cuộc chinh phạt của mình (x. 1 Mcb 6:1-7). Chi tiết này cho thấy, thất bại hay đau khổ trong cuộc sống là “thầy dạy” về sự khôn ngoan và giá trị đích thật trong cuộc sống. Thật vậy, sau nhiều thất bại, vua Antiôkhô “lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. Vua nằm liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt” (1 Mcb 6:8-9). Cũng chính khi đối diện với cái chết, vua Antiôkhô mới hiểu được điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống. Điều này được diễn tả trong những lời dường như sau cùng của ông: “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giêrusalem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giuđa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (1 Mcb 6:10-13). Những lời này cho thấy hạnh phúc đích thật của con người không hệ tại ở những chiến công hiển hách, nhưng hệ tại việc sống một đời sống “không tham lam” và “không tàn bạo.” Nói cách khác, hạnh phúc hệ tại việc không để cho của cải vật chất làm lu mờ con tim rồi giết chết tình yêu mình dành cho người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta vừa được nghe trong Chúa Nhật tuần trước [Chúa Nhật XXXII TN]. Nội dung chính của bài Tin Mừng là cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với nhóm Xađốc về việc người chết sống lại [hay sự phục sinh]. Chúng ta cần lưu ý rằng, bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh của những lời giảng trong Đền Thờ của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nói, Đền Thờ là nơi những người Xađốc có vị trí quan trọng trong việc giảng dạy. Một trong những điều họ giảng dạy, được đưa ra tranh luận với Chúa Giêsu, là việc không có sự sống lại. Như chúng ta biết, nhóm Xađốc chỉ tin vào Torah được viết ra, chúng ta gọi là Ngũ Kinh. Họ dựa trên Luật được tìm thấy trong Ngũ Kinh để chứng minh rằng sự sống lại là một điều không thể xảy ra như câu chuyện họ dùng để minh hoạ: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc 20:28-33). Họ dựa vào Levirate Luật được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật (25:5) để áp dụng vào một câu chuyện mang tính hư cấu nhằm đặt Chúa Giêsu vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan để cuối cùng phải chấp nhận giáo huấn của họ là không có sự sống lại.
Để trả lời cho vấn nạn trên, Chúa Giêsu đi theo hai bước: Bước thứ nhất, Ngài đưa ra sự khác biệt giữa sự sống đời này và đời sau. Theo Ngài, “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20:34-36). Trong những lời này, Chúa Giêsu cho biết, chỉ có những người sống sự sống đời này mới cần đến việc sinh con đẻ cái hầu tiếp tục miêu duệ của mình khi họ chết. Điều này nói lên ước mơ trường tồn hay khát vọng sống vĩnh cửu của con người. Họ muốn sống mãi trong con cháu khi họ đã từ giã cõi đời. Còn những người sống lại từ cõi chết, vì không chết nữa nên họ không cần phải có con cháu để được nhớ đến và sống mãi. Bước thứ hai, Chúa Giêsu sử dụng biến cố Thiên Chúa hiện ra với Môsê trong bụi gai [dựa trên Ngũ Kinh], để chứng minh cho vấn đề kẻ chết trỗi dậy: “Thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20:37-38). Những lời này cho chúng ta thấy trong Thiên Chúa, mọi khoảnh khắc đều là hiện tại. Ngài là Thiên Chúa của những gì hiện hữu, những gì đang sống. Trong Ngài không có sự chết, vì Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài chính là sự sống. Khi chúng ta sống trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ không phải chết. Điều chúng ta đang nói ở đây ám chỉ đến đời sống thiêng liêng. Có nhiều người trong chúng ta “sống mà như đã chết.” Họ là những người sống không yêu thương, không cảm thông và không tha thứ. Trái tim và thái độ sống của họ chỉ có sự chua chát, ghen tương và giận hờn. Còn những người sống trong Chúa, họ luôn hạnh phúc và có được niềm vui sâu kín trong tâm hồn dù phải đối diện với nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Sống vui hay sống buốn, sống trong Chúa hay trong sự chết, đó là sự chọn lựa của chúng ta.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
