Ngày 21.09: Thánh Tử đạo Tôma Trần Văn Thiện (Chủng sinh)

THÁNH TÔMA TRẦN VĂN THIỆN

Chủng sinh, Tử đạo

(1820 – 1838)

“Chú Thiện” như người đương thời quen gọi các tiểu chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia đình đạo hạnh, đã nhiều đời theo Chúa, thuộc làng Trung Quán, tỉnh Quảng Bình.

Nữ tu Mađalêna Yến, một nhân chứng sống cùng thời thuật lại: “Chú Thiện có một người dì, mang tên Nghị, làm bà nhất phước viện (tức dòng Mến Thánh Giá) Trung Quán. Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan ngoãn, nhu mì, ngồi bên cạnh, chẳng thốt lên một tiếng. Các nữ tu thấy cậu bé xinh đẹp hiền lành này liền vây quanh nói chuyện, thử làm cho chú mỉm cười. nhưng chú vẫn nhắm mắt lặng im”.

Con muốn “ở chú” với cha không?

Khi linh mục đến dâng lễ ở họ đạo nhà, chú quỳ tham dự cách nghiêm trang. Lên tám, chín tuổi, chú bắt đầu học chữ Nho, tỏ ra thông minh bền chí và tiến bộ rất nhanh. Có lần chú theo dì Nghị đi lễ ở giáo xứ Mỹ Lương, sau lễ vào chào các linh mục. Các cha thấy cậu bé khôi ngô, hiền lành đều hỏi: “Con có muốn ở chú (đi tu) với cha không?” Cậu Tôma Thiện không thưa gì. Nhưng chỉ ít lâu sau, người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha Chính, họ Kẻ Sen. Vị linh mục này đã dạy tiếng Latinh cho chú nhiều năm…

Nhà thờ Trung Quán hiện nay

Tháng 04.1837, Thừa sai Jean Jacob Candalh (Kim) từ miền Bắc mạo hiểm vào miền Trung và ở lại Di Loan theo chỉ thị của Giám mục Đàng Trong lúc ấy là Đức Cha Étienne Cuénot (Thể) để lập Tiểu Chủng viện (Giáo sử gọi là Chủng viện Di Loan, Quảng Trị kỳ II: 1837-1838). Sau đó hội ý với cha Gioakim Lê Văn Tư, quản xứ An Ninh, cha Candalh đã mua một thửa đất và nhà để thi hành mệnh lệnh Bản quyền Giáo phận. Cuối năm 1837, Chủng viện khai giảng với 6 chủng sinh. Mấy tháng sau, bị tố giác, đành phải đóng cửa. Cha Giám đốc và các chủng sinh chạy ra Quảng Bình, ẩn tại Kim Sen, nơi một trang trại do trùm hạt Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Thánh Tử đạo tương lai) lập ra để tín hữu trốn trong thời kỳ bách hại.

Lúc bấy giờ cha François Vialle đang ở Bố Chính, Quảng Bình, không biết chủng viện đã giải tán nên biểu học trò của mình là chú Tôma Trần Văn Thiện vào tựu trường. Khi ấy Thiện lên 18 tuổi và đã được cha giám đốc Jean Candalh Kim nhận, nhờ tính tình tốt lành và trí tuệ thông minh.

Đầu tháng 06.1838, chú cùng với bà chị tên Sao hăng hái lên đường. Dọc đường hai chị em gặp nữ tu Yến từ Di Loan về cho biết cha bề trên Candalh đã phải trốn và quân lính đang lùng bắt, rồi khuyên hai chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện tỏ ra cương quyết: “Dầu không gặp cha bề trên, con cũng phải tới tận nơi để biết rõ sự thể. Cha đã gọi, chẳng lẽ chưa đến đã bỏ về?”

Tới chủng viện, thấy chỉ còn vườn không nhà trống, may cha Tư chưa đi. Hai chị em bèn trình diện với ngài. Ngài nói: “Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em đến, chỉ làm khó khăn cho chúng tôi thôi.” Chị Sao đáp: “Thưa cha, em con nhờ con dẫn đi, vì có giấy cha bề trên gọi. Chúng con đâu biết cuộc bắt đạo lại xẩy ra bất ngờ như thế.”

Chú xin ở lại nhà một giáo dân để xem tình thế ra sao đã. Vài hôm sau, quan quân huyện Vĩnh Linh bao vây hai làng Di Loan và An Ninh, lục soát từng nhà. Không tìm thấy cha Kim, họ bắt một số giáo dân, trong đó có chú Thiện, giải về Quảng Trị.

“Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa”.

Quan tỉnh Quảng Trị nghe nói chú Thiện là chủng sinh của cha Kim, nên truyền tra hỏi cặn kẽ để biết vị bề trên trốn ở đâu. Sau khi hỏi gốc tích, quan khuyên chú chối đạo, nếu không sẽ bị chết. Chú Thiện thành thật và thẳng thắn trả lời: “Tôi quê ở Trung Quán, Quảng Bình, đến tìm thầy học đạo. Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ.”

Dọa không xong, quan giở trò khuyến dụ : nào là tuổi còn trẻ, đời còn dài, nào là tương lai còn nhiều triển vọng. Hơn thế, quan còn nói muốn chọn chú làm con rể, sẽ đứng ra lo liệu cưới xin, rồi sẽ giúp thăng quan tiến chức như ông nếu bỏ đạo. Nhưng chú Thiện đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế.”

Lời khẳng định ấy không phải ai cũng thốt lên được. Trong số những giáo dân bị bắt, nhiều kẻ tỏ ra luyến tiếc cho chú đã bỏ lỡ một “cơ hội ngàn vàng”. Chàng trai có vóc dáng thư sinh nhưng chí khí thật kiên cường, khiến quan phải ngạc nhiên; và từ ngạc nhiên đến tức giận, vì dám xúc phạm đến sự “bao dung” và lòng “ưu ái” của mình. Thế là ông truyền đánh đòn chàng. 40 roi quất trên thân thể gầy yếu, máu chảy thấm qua y phục, nhưng vị chứng nhân không lay chuyển, vẫn gan dạ mỉm cười nói: “Hãy nhìn xem máu tôi chảy ra kìa.”

Thấy chú can đảm hơn người, quan truyền đóng gông kẹp xiềng, giam nhốt vào ngục. Nỗi đau này chỉ động tới thể xác, nhưng còn nhiều nỗi đau động tới tâm hồn. Trong ngục thất, Tôma Thiện chẳng có bà con thân thích nào ở Quảng Trị đến thăm nom tiếp tế cả. Những giáo hữu Di Loan cùng bị bắt lúc đầu còn chia sẻ cho chú đôi chút lương thực, nhưng về sau họ chẳng cho gì nữa. Họ đã nghe quan dụ dỗ chớ nâng đỡ chú để có thể trở về với gia đình. Tuy thế quan vẫn chưa thả họ ngay. Vì muốn chú cũng phải khuất phục, quan dùng những kẻ nhẹ dạ này gây áp lực, bảo do chú mà họ lâu được thả, nhưng Tôma Thiện trước sau vẫn một mực trung thành với đức tin.

Chú tiếp tục bị thẩm vấn và bị đánh đòn hai lần nữa, nhưng vẫn vui vẻ lãnh nhận. Mỗi lần roi quất xuống, chú lại cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thêm sức cho con chịu đau khổ vì Ngài.” Ngoài ra chú còn bị phơi nắng và bị kìm kẹp, nhưng vị anh hùng trẻ tuổi vẫn không sờn lòng, chứng tỏ một nghị lực phi thường và một đức tin hiếm có.

Cha với chú đồng khổ, đồng vinh.

Sau khi bất lực trước ý chí sắt đá của Tôma Thiện, ngày 18-07-1838, quan truyền giam chú chung với cha Jaccard Phan vốn bị giải về từ Cam Lộ cách đấy 4 tháng. Hai cha con gặp nhau vui mừng hết sức. Chú Thiện được cha an ủi, khích lệ và ban bí tích hòa giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện vì bất ngờ có một người con tinh thần dũng cảm trong đức tin giữa lao ngục. Cả hai cùng nhau cầu nguyện, nâng đỡ trợ giúp lẫn nhau và quyết chí trung tín với đạo đến cùng.

Trước tinh thần bất khuất của cặp chứng nhân, quan quyết định cả hai phải bị chém đầu và bản án được gởi vào Kinh đô. Án chú Thiện viết như sau : “Tên Thiện bị mê hoặc theo đạo Gia-tô, dầu bị tra tấn cũng không từ bỏ, nên nó phải chết giống như đạo trưởng của nó.”

Gần một tháng sau vua Minh Mạng mới châu phê và đổi thành xử giảo. Có lúc nóng lòng chờ đợi, chú Thiện thưa với cha Phan: “Thưa cha, người ta cứ để cha con ta sống lâu mãi! Sao họ không cho mình được thấy mặt Chúa để kết hiệp cùng Người muôn đời?” Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt cha mẹ, họ hàng, và khuyên ai nấy trung thành giữ vững đức tin.

Sáng ngày 21.09.1838, hai chứng nhân Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp trường là một bãi hoang thuộc làng Nhan Biều, cạnh sông Thạch Hãn, gần thành Quảng Trị. Khi đi qua một quán ăn, viên chỉ huy cho hai vị dừng chân ăn uống theo thói quen dành cho tử tội. Cha Phan chẳng dùng gì cả, còn chú Thiện thì thưa với cha: “Con cũng không ăn, để về dự tiệc Thiên đường vĩnh phúc, phải không cha?” Tới nơi xử, chú quỳ xuống trước mặt vị linh mục. Lính tháo gông, tròng dây vào cổ. Lệnh xử ban hành, họ kéo hai đầu dây thật mạnh, đầu vị tử đạo 18 xuân xanh gục xuống. Sau đó, đến lượt cha Phan cũng bị xử như vậy.

Khác với các cuộc tử đạo trước, cuộc hành quyết này không có giáo hữu đi theo để chứng kiến và xin an táng. Những người ngoại đã chôn cất hai vị ngay ở pháp trường. Năm 1847 thi hài hai vị tử đạo được cải táng và đưa về tôn vinh tại chủng viện Hội Thừa sai Hải ngoại Paris. Ngày nay, chỗ hành quyết hai vị tại Nhan Biều đã mọc lên một ngôi đền tưởng niệm, xây năm 2010.

Đền Thánh Tôma Thiện và Phanxicô Jaccard Phan tại Nhan Biều

Ngày 27.05.1900 Đức Giáo hoàng Lêo XIII đã suy tôn chủng sinh Tôma Trần Văn Thiện lên bậc Chân phước. Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II tôn phong lên bậc Hiển thánh ngày 19.06.1988.

Vậy là tuy mới 18 xuân xanh, lứa tuổi yêu đời ham sống, chưa nếm gian khổ của kiếp người, cũng chưa được học tập thâm sâu về giáo lý, lại vừa tới ngưỡng cửa chủng viện, Tôma Thiện đã ứng phó khéo léo và can đảm trước bạo lực, đâu thua kém bất cứ chiến sĩ đức tin nào khác trên hoàn cầu. Quả thực, anh đã thấu hiểu lời Chúa Kitô: “Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn thì đặng ích gì” (Mt 16,26).

Ban Biên tập Lịch sử TGP Huế

———————————————

[1] Thừa sai Gagelin lúc ấy đang ở Bình Định, xin phép bề trên tự nộp mình và bị đem ra Huế ngày 23.08.1833, cha cũng bị giam ở Cung Quán nhưng riêng biệt, và tử đạo ngày 17-10-1833

Nguồn: tonggiaophanhue.org