
(Is 11:1-10; Rm 15:4-9; Mt 3:1-12)
Trong mọi thời và mọi nơi, con người luôn mong ước được sống bình an, không chiến tranh, không hận thù. Con người đã làm đủ cách để có được bình an và giữ bình an trong tâm hồn, trong gia đình, giáo xứ [hội dòng], quốc gia hay thế giới. Dù cho mỗi người trong chúng ta mong muốn có bình an và hoà bình, tại sao vẫn còn nhiều sự bất an trong cuộc sống mỗi người và trên thế giới. Lời Chúa tuần thứ hai Mùa Vọng đưa ra cho chúng ta chìa khoá để có sự bình an.
Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Isaia nói về viễn cảnh của ngày mà “nhánh nhỏ, từ cội rễ Giesê sẽ mọc ra” (Is 11:1). “Nhánh nhỏ,” từ cội rễ Giesê ám chỉ Đấng Cứu Thế, Đấng sẽ mang lại cho dân sự bình an đích thực vì “Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11:2). Trong ngày “nhánh nhỏ từ cội rễ Giesê mọc ra,” mọi người và mọi loài sẽ được tận hưởng sự bình an tuyệt đối trên núi thánh của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11:6-9). Những lời này đưa chúng ta về sự bình an của vườn địa đàng khi Thiên Chúa tạo dựng con người và muôn loàn muôn vật. Mọi sự sống hoà hợp với nhau, không có ghen ghét, tranh chấp vì mọi sự sống trong sự hiện diện và theo thánh ý của Thiên Chúa. Đây chính là chìa khoá đầu tiên để mang lại bình an. Kinh nghiệm trong ngày sống dạy chúng ta rằng khi không sống dưới sự hiện diện và theo thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở thành “chúa” của cuộc đời mình và không những thế chúng ta còn trở thành những “bạo chúa” trong tương quan với anh chị em và các tạo vật khác. Chính điều này đã tạo ra chiến tranh và chống đối trong chính con người của chúng ta, với anh chị em và với vũ trụ. Để tái thiết lại sự bình an, chúng ta cần phải “sám hối,” thay đổi hoàn toàn con người của mình để hoàn toàn sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Về phần mình, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 kêu gọi các tín hữu Rôma tập trung vào Kinh Thánh vì những lời đó “đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Trong những lời này, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy lời Chúa dạy dỗ chúng ta trên con đường nhân đức, nhất là sự kiên nhẫn và trông cậy. Đây chính là hai nhân đức cần thiết khi sống chung với nhau. Hai nhân đức này sẽ giúp chúng ta sống đồng tâm nhất trí và hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa (x. Rm 15:5-6). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể có được hai nhân đức này khi chúng ta sống theo mẫu gương của Đức Giêsu Kitô, Đấng rất kiên nhẫn và luôn hy vọng rằng chúng ta sẽ sám hối. Như vậy, Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta chìa khoá mang lại bình an, nhất là trong đời sống chung, đó là sự kiên nhẫn và đức hy vọng. Khi có hai nhân đức này, chúng ta mới hiểu được lời mời gọi kế tiếp của Thánh Phaolô: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rm 15:7). Chỉ những người cảm nhận được Đức Kitô đã đón nhận mình cách vô điều kiện, ngay cả khi mình là một tội nhân, mới có khả năng đón nhận anh chị em mình để làm rạng danh Thiên Chúa.
Phụng vụ Mùa Vọng được chi phối bởi ba nhân vật, đó là Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ hai và ba Mùa Vọng tập trung vào vị tiền hô, còn lời Chúa trong Chúa Nhật thứ tư sẽ tập trung vào Mẹ Maria. Hai nhân vật này [một nam và một nữ, đại diện cho toàn thể nhân loại] là những gương mẫu của những người chuẩn bị để đón Chúa Giêsu. Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta đến với hình ảnh của Gioan Tẩy Giả. Chúng ta thấy Thánh Mátthêu đã vẽ lên một vị tiền hô của Chúa Giêsu thật nhiệt thành và sống triệt để cho các giá trị Tin Mừng. Chúng ta cùng nhau phân tích căn tính và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy giả để rút ra những bài học cần thiết cho đời sống của mình.
Trước tiên, sứ điệp Gioan Tẩy Giả rao giảng là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2). Đây cũng chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu sẽ rao giảng khi Ngài bắt đầu đời sống sứ vụ công khai (x. Mt 3:2; 4:17). Mới đọc qua, chúng ta thấy đây là một “câu điều kiện” – hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Nếu Nước Trời chưa đến gần thì sao? Nhiều người trong chúng ta đồng hoá chữ “sám hối” [metanoia] với chữ “ăn năn,” đó là sự khóc than cho tội của mình [và của người khác]. Tuy nhiên, đây chỉ là một khía cạnh nhỏ của “sám hối.” Sám hối là sự “thay đổi một cách triệt để lối suy nghĩ, hành động, và lối sống của mình” để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta nhận ra rằng chỉ những người sám hối mới có thể nhận ra sự gần gũi của Nước Trời.
Thứ hai là căn tính của Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3:3). Những lời này cho thấy Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ là “tiếng hô” kêu gọi mọi người chuẩn bị con đường tâm hồn của mình để Đức Chúa đi vào. Suy gẫm về “tiếng hô,” các giáo phụ dạy rằng: Tiếng hô [tiếng kêu] sẽ không có giá trị gì và không chuyển tải được một sứ điệp nào nếu không có lời. Đứng tách riêng ra một mình, tiếng hô chỉ tạo ra những âm thanh vô nghĩa. Nhưng khi có lời, tiếng hô sẽ có ý nghĩa vì nó chuyển tải được sứ điệp cho người nghe. Gioan Tẩy Giả là tiếng kêu, Chúa Giêsu là lời. Như vậy, cuộc sống của Gioan Tẩy Giả chỉ có ý nghĩa khi gắn chặt với Chúa Giêsu. Đây chính là điều mỗi người chúng ta được mời gọi để sống. Mỗi người chúng ta là tiếng hô của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Nhưng chúng ta chỉ mang sứ điệp Tin Mừng đến cho người khác chỉ khi chúng ta gắn chặt đời mình với Chúa Giêsu. Đừng tách ra khỏi Chúa Giêsu, nếu không chúng ta sẽ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống mình.
Thứ ba, lối sống của Gioan Tẩy Giả đã hấp dẫn nhiều người đến chuẩn bị mình cho sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu sẽ mang đến: “Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (Mt 3:5-6). Nhiều người đã kính trọng Gioan Tẩy Giả vì lối sống triệt để cho Tin Mừng của ông. Điều này cho thấy, sự kính trọng dành cho Gioan Tẩy Giả và sự hấp dẫn của ông không đến từ tính cách tự nhiên của ông, nhưng đến từ vẻ đẹp của Tin Mừng mà ông đã sống. Chi tiết này mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc đời của mình: Vẻ đẹp và sự kính trọng của người khác dành cho chúng ta không hệ tại những món quà tự nhiên chúng ta có, nhưng hệ tại lối sống hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa của chúng ta. Sống thánh, sống vui là sống cách triệt để các giá trị Tin Mừng.
Thứ tư, Thánh Gioan Tẩy Giả không sợ những người có uy quyền: “Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: ‘Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3:7-10). Đọc những lời này làm chúng ta cũng chột dạ vì nhiều lần trong cuộc sống, vì tính “cả nể” nên chúng ta không dám “sửa lỗi huynh đệ” với những người có quyền thế. Một phần có thể vì sợ, một phần có thể vì một tí lợi ích nào đó chúng ta đang hưởng mà nếu “góp ý” chúng ta sẽ mất lợi ích đó. Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta mạnh dạn làm chứng cho Chúa mà không sợ nói những lời khuyến cáo cần thiết để sinh ích lợi cho anh chị em có quyền thế của mình.
Cuối cùng, Thánh Gioan nói về chính mình trong tương quan với Chúa Giêsu, Đấng sẽ đến: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3:11-12). Dù được nhiều người kính trọng và xem như đấng messia, Thánh Gioan Tẩy Giả không ngộ nhận điều này. Ngài sống đúng với căn tính của mình, là một người đi trước dọn đường cho Chúa. Đức tính này của thánh nhân rất cần thiết cho chúng ta ngày hôm nay khi nhiều người trong chúng ta chạy theo một lối sống không đúng với căn tính của mình. Chúng ta không muốn là chính mình mà muốn là một người không phải là mình. Là một người Kitô hữu mà không sống như dân ngoại. Mẫu gương của Thánh Gioan Tẩy Giả nhắc nhở chúng ta về căn tính của mình: Tôi là một con người, được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1:26-27); không những thế, tôi còn là con Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Đức Giêsu. Nếu tôi có một nhân phẩm cao quý như thế, tại sao tôi phải chạy theo một lối sống khác không thuộc về mình?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
