(1 Cr 2:10b-16; Lc 4:31-37)
Thánh Phaolô trong bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về vai trò của Thần Khí Thiên Chúa hoạt động trong đời sống của người Kitô hữu. Theo thánh nhân, Thần Khí là Đấng “thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2:10b). Vì lý do này, nếu muốn biết mầu nhiệm Thiên Chúa, người Kitô hữu cần phải đến với Ngài: “Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2:11). Bên cạnh đó, Thánh Phaolô chỉ rõ cho biết để loan báo mầu nhiệm Thiên Chúa, người Kitô hữu “không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr 2:13). Trong những lời này, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta về sự giới hạn của trí hiểu con người. Dù chúng ta có thông minh đến đâu, trí hiểu của chúng ta cũng có giới hạn. Vì thế, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa; chúng ta cần đến ân sủng của Ngài chứ không chỉ sống theo tính tự nhiên của mình: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cr 2:14-15). Những lời này làm chúng ta nhìn lại mình vì chúng ta thường sống theo bản tính tự nhiên của mình chứ không sống theo ân sủng. Chúng ta thường phản ứng lại anh chị em mình theo kiểu “răng đền răng, mắt đền mắt” chứ không theo kiểu “hãy yêu thương những kẻ ghét anh em.” Chỉ những ai sống theo ân sủng mới đạt đến mức thập toàn, trở nên người cảm thông và tha thứ cho mọi người và cũng không là “thập giá” cho người khác.
Sau khi “không thành công” ở quê nhà, Chúa Giêsu “xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát, Người giảng dạy dân chúng” (Lc 4:31). Ngài làm những gì Ngài đã làm ở quê nhà [giảng dạy trong hội đường], nhưng phản ứng của người nghe khác nhau: Ở quê nhà, “mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Sự tán thành và thán phục nhanh chóng trở thành sự coi thường. Kết cục là họ muốn giết Ngài; còn ở Caphácnaum, mọi người “sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền” (Lc 4:32). Sự sửng sốt về lời của Người không bị mất đi. Câu 32 và câu 36 tạo thành một cặp “bánh mì kẹp.” Mọi người sửng sốt trước khi Chúa Giêsu thực hiện việc trừ quỷ và họ rất đỗi kinh ngạc sau khi Người trừ quỷ. Tất cả họ quy cho lời giảng dạy của Ngài [lời của Ngài có sức mạnh trên các thần ô uế]. Điều này làm sáng tỏ “căn tính” của Chúa Giêsu. Ngài là “Đấng Thánh” của Thiên Chúa (Lc 4:34). Sứ điệp của Ngài có sức giải phóng con người. Lời của Ngài là lời Thiên Chúa. Nhìn từ khía cạnh này, chúng ta nhận ra rằng Thánh Luca dùng lối viết “bánh mì kẹp” nhằm mục đích nói về căn tính của “ông Giêsu Nadarét,” và căn tính này được mạc khải qua lời Ngài nói và công việc Ngài làm. Khi căn tính thật của Ngài được tiết lộ, thì “tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng” (Lc 4:37).
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay rõ hơn, chúng ta phải đặt nó vào trong bối cảnh của việc Nước Thiên Chúa sẽ phục hồi con người trở nên hoàn thiện (x. Lc 4:31-44). Thánh Luca sử dụng một nhóm những công việc Chúa Giêsu thực hiện để tạo nên một bài giáo lý mang tính Kitô học cho cộng đoàn của ngài. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện đầu tiên trong nhiều sự kiện trừ quỷ được trình thuật trong Tin Mừng Thánh Luca và sách Công Vụ Các Tông Đồ. Trong trích đoạn này, Thánh Luca trình bày một đề tài quan trọng trong đời sống tôn giáo của người Do Thái, đó là đề tài về thanh sạch. Đề tài này hợp nhất ba khái niệm trong bài Tin Mừng: ngày sabbath, thần ô uế và Đấng Thánh của Thiên Chúa. Một cách cụ thể hơn, Chúa Giêsu chữa lành người bị thần ô uế ám trong ngày sabbath, ngày mà đối với người Do Thái là được tách riêng ra khỏi những ngày thường vì Chúa Giêsu có một tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Ngài chính là sự thánh thiện. Nói cách khác, chính Ngài làm cho ngày sabbath trở nên thánh thiện và trong sạch vì mối tương quan mật thiết Ngài có với Thiên Chúa. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về cuộc sống của mình: chúng ta chỉ trở nên thánh thiện và trong sạch chỉ khi chúng ta có mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự thánh thiện của chúng ta không đến từ những việc chúng ta thực hiện, nhưng đến từ việc chúng ta nối kết liên lỉ với suối nguồn của sự thánh thiện, đó là Thiên Chúa. Mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa của Chúa Giêsu được Thánh Luca nói đến trong những chương trước đó [x. 1:32-33; 2:11,30,49; 3:22-23; 4:1-13], và mối tương quan này chỉ ra Chúa Giêsu là ai: Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (x. Lc 4:41). Căn tính Kitô hữu của chúng ta cũng được định nghĩa dựa trên mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Càng sống gần Ngài và có tương quan sâu đậm với Ngài, chúng ta sẽ biết mình là ai và tỏ cho người khác biết mình là ai: là con Thiên Chúa [ngoài việc là một con người như bao nhiêu người khác].
Phần được kẹp bên trong hai miếng “bánh mì kẹp” là việc Chúa Giêsu trừ quỷ thần ô uế (x. Lc 4:33-35). Và trung tâm của phần được kẹp bên trong là câu 34, nói về căn tính của Chúa Giêsu [được thần ô uế tuyên nhận]. Điều này làm sáng tỏ điều chúng ta nói ở trên, đó là nội dung chính của đoạn Tin Mừng này là nói về căn tính của Chúa Giêsu, điều mà được mạc khải qua lời và công việc của Ngài. Điều này được làm sáng tỏ bởi động từ “ra lệnh” [Gk. epitiman] dùng trong câu 35 [câu này dịch đúng là: “Đức Giêsu ra lệnh cho thần ô uế” hơn là “Đức Giêsu quát mắng thần ô uế”]. Thuật ngữ này được sử dụng để nói đến việc công bố một lời mang tính “ra lệnh” mà qua đó Thiên Chúa hoặc “vị phát ngôn viên của Ngài” làm cho quyền lực của thần ô uế phải quy phục. Thuật ngữ này ám chỉ việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế đang hiện diện trong tất cả mọi người. Điều này chúng ta sẽ được chứng kiến trong câu chuyện tiếp theo (Lc 4:38-39), khi Ngài trừ bệnh sốt của một người phụ nữ trong nhà riêng. Sức mạnh giải phóng của Ngài là cho tất cả mọi người và không bị giới hạn vào nơi chốn linh thiêng hoặc trần tục. Chi tiết này mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống của mình: Thần ô uế nào đang sở hữu chúng ta? Chúng ta cần chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài trừ khỏi những thần ô uế đang ám chúng ta, không cho chúng ta tự do yêu thương và tha thứ.
Lm, Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB