Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Hai sau Chúa Nhật IV Mùa Chay – Tin Vào Lời Thiên Chúa

(Is 65:17-21; Ga 4:43-54)

Sau Chúa Nhật IV Mùa Chay, Chúa Nhật của niềm vui trở về với Chúa, lời Chúa trong tuần này mang tính chất an ủi và tràn đầy niềm hy vọng. Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia nói về viễn cảnh ngày dân Israel trở về từ lưu đày Babylon. Ngày đó được so sánh như là sáng tạo mới và “không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí” những lỗi phạm của con người (x. Is 65:17). Trong ngày đó, mọi người sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính [Thiên Chúa] sáng tạo” (Is 65:18). Không chỉ muôn dân sẽ hân hoan trong ngày đó, mà Thiên Chúa cũng sẽ vì Giêrusalem mà hoan hỷ và vì dân Israel, Ngài sẽ nhảy mừng (x. Is 65:19). Trong ngày đó, Thiên Chúa sẽ biến tiếng khóc của mọi người thành tiếng cười. Tuy nhiên, niềm vui đích thật chỉ đạt được trên thiên đàng. Đây chính là điều chúng ta tìm thấy trong hai câu cuối.

Thật vậy, trong hai câu cuối của bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia dùng hình ảnh thiên đàng, vùng đất của hạnh phúc để diễn tả ngày dân Israel trở về. Trong vùng đất hạnh phúc đó, không ai còn nghe tiếng than khóc kêu la. Và cũng trong vùng đất đó, con người sẽ tận hưởng hai món quà mà dân Israel xem như dấu chỉ của những người được chúc lành, đó là, sống lâu và an cư lạc nghiệp với một cuộc sống sung túc, giàu sang: “Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu và người già tuổi thọ không tròn; vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ, và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa. Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái” (Is 65:20-21). Trong Cựu Ước, hai món quà sống lâu và giàu sang là dấu chỉ của phúc lành mà Thiên Chúa ban cho những ai sống đẹp lòng Ngài. Đây cũng chính là hai món quà mà mỗi người chúng ta mong ước: ai cũng muốn sống lâu và giàu sang. Nhưng sống lâu và giàu sang có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là có một cuộc sống “trong” Thiên Chúa, vì chỉ trong Thiên Chúa mà chúng ta có sự sống đời đời và có tất cả mọi sự. Cuộc sống và của cải trần thế luôn có giới hạn: không ai sống hơn 200 tuổi mà cũng không ai có mọi sự trên thế gian này. Vì vậy, hãy sống trong Thiên Chúa để được hưởng những tháng ngày an vui và hạnh phúc.

Bài đọc 1 nói về cuộc trở về của dân Israel từ lưu đày Babylon, còn bài Tin Mừng hôm nay trình bày cuộc trở về Galilê của Chúa Giêsu sau hành trình rao giảng ở vùng Samaria và Galilê. Cuộc trở về này kết thúc với “dấu lạ” thứ hai tại Cana: chữa lành con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua, dấu lạ mà thánh Gioan trình thuật lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng. Chúng ta biết điều này qua câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay: “Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê” (Ga 4:54). Sự kiện chữa lành này tương đương với sự kiện chữa lành người con nhỏ của viên đại đội trưởng trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (8:5-13), hay sự kiện chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng trong Tin Mừng Thánh Luca (7:1-10). Các tác giả của Tin Mừng Nhất Lãm kết thúc câu chuyện chữa lành với hình ảnh đối ngịch giữa đức tin của viên đại đội trưởng và lòng tin yếu kém của dân Israel. Hình ảnh đối nghịch này không được Thánh Gioan trình bày trong cùng câu chuyện như các tác giả của Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng trong sự liên kết giữa dấu lạ thứ hai và thứ ba [chữa lành người bệnh ở Hồ Bethzatha trong Ga 5:1-18). Qua dấu lạ thứ hai, viên sĩ quan cận vệ của nhà vua và cả nhà ông đều tin vào Chúa Giêsu  (x. G 4:53); trong khi đó qua dấu lạ thứ ba, người Do Thái bắt đầu bắt bớ Chúa Giêsu vì Ngài chữa lành trong ngày Sabbath (Ga 5:16).

Câu mở đầu của bài Tin Mừng hôm nay làm chúng ta ngạc nhiên: “Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình.” Chúng ta ngạc nhiên không phải vì nó mới lạ [chúng ta đã nghe nó trong các Tin Mừng Nhất Lãm], nhưng vì lý do nó được đưa vào đoạn Tin Mừng này. Các học giả Kinh Thánh thắc mắc về lý do tại sao Gioan đặt câu này trong một bối cảnh rất tích cực khi mọi người ở Galilê đều đón tiếp Ngài: “Khi Người đến Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ” (Ga 4:45). Tại sao có điều này? Câu trả lời được tìm thấy trong chương 6, chương nói việc những người Galilê chống đối và bỏ Chúa Giêsu. Như vậy, Thánh Gioan báo trước sự thay đổi thái độ của những người Galilê từ đón nhận đến chống đối Chúa dù đã chứng kiến tất cả những phép lạ Ngài làm. Chúng ta cũng có thể thay đổi thái độ với Chúa: Chúng ta có thể rất mặn nồng với Chúa ban sáng, nhưng lại trở nên lạnh nhạt với Ngài ban chiều.

Chúng ta cùng nhau tập trung vào một vài chi tiết của câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay để nghe Chúa muốn gì ở chúng ta. Như chúng ta đã trình bày ở trên, trình thuật này cũng được tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu và Luca với nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Tuy nhiên, chúng ta chỉ tập trung vào một điểm khác biệt rõ ràng nhất, đó là, người xin và người được chữa lành: “viên đại đội trưởng” là người xin và “người đầy tớ” là người được chữa lành trong trình thuật của Mátthêu và Luca; còn trong Tin Mừng Thánh Gioan, “người sĩ quan cận vệ của nhà vua là người xin, “người con” là người được chữa lành. Nói cách cụ thể, điểm khác biệt tập trung vào “người xin”: trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu và Luca, người xin là người ngoại giáo [viên đại đội trưởng], còn trong Tin Mừng Thánh Gioan, người xin là người do thái [viên sĩ quan cận vệ của vua Hêrôđê]. Điều này giúp chúng ta nhận ra người nghe của các Tin Mừng là ai và mục đích của Tin Mừng được viết ra nhắm đến những người nào: người ngoại giáo trong Tin Mừng của Luca và người Do Thái trong Tin Mừng của Gioan. Tuy nhiên, đây là những thông tin chúng ta cần biết đến để hiểu hơn Tin Mừng hôm nay. Điều chúng ta quan tâm là chúng ta rút ra được điều gì trong trình thuật chữa lành này? Chúng ta có thể rút ra hai điều sau từ thái độ của Chúa Giêsu và của viên sĩ quan cận vệ.

Thái độ thứ nhất [từ Chúa Giêsu] là dùng lời nói để nói tốt và làm điều tốt cho người khác. Dù Chúa Giêsu khuyến cáo rằng: “nếu các ông không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!” (Ga 4:48). Trong câu này, Chúa Giêsu dường như lưỡng lự và không muốn làm dấu lạ. Tuy nhiên, phép lạ xảy ra với “Lời” của Chúa Giêsu: “Ông cứ về đi, con ông sống” (Ga 4:50). Điều này đưa chúng ta về với đề tài “Lời” trong Tin Mừng Thánh Gioan. Điều cần thiết là tin vào “Lời” của Chúa Giêsu và từ đó tin Ngài là “Lời” nhập thể. Như Chúa Giêsu đã khuyến cáo, chúng ta là những con người, chúng ta cần “dấu lạ” để tin. Tuy nhiên, hàng ngày chúng ta nhìn thấy nhiều dấu lạ, nhưng chúng ta không tin. Chúng ta không tin vì chúng ta không để cho Lời Chúa Giêsu chữa lành chúng ta. Hãy để cho Lời Chúa tác động và chữa lành những thói hư tật xấu của chúng ta. Đó là những phép lạ giúp chúng ta tin vào Ngài.

Thái độ thứ hai là tin [viên sĩ quan cận vệ của nhà vua] ngay cả khi chưa hoặc không nhìn thấy kết quả. “Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về” (Ga 4:50). Niềm tin của ông đã trở nên nền tảng cho niềm tin của cả nhà ông (x. Ga 4:54). Chúng ta thường muốn nhìn thấy kết quả theo kiểu “ăn liền.” Khi cầu nguyện để được một ơn gì, hay cầu nguyện cho một ai đó, chúng ta thường muốn nhìn thấy kết quả ngay. Chúng ta thấy, viên sĩ quan đặt trọn niềm tin vào Lời của Chúa Giêsu và ra về, dù ông chưa thấy kết quả của điều ông xin. Ông không nghi ngờ. Chính đức tin vững mạnh này trở nên nền tảng cho các thành viên của gia đình ông. Chúng ta có thể nói, ông có niềm tin như hạt cải, và khi nó mọc lên, nó trở thành một cây lớn đến nỗi chim trời đến nương náu trên cành nó. Chúng ta cũng được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Chúa, để khi đứng vững trong đức tin của mình, chúng ta có thể nâng đỡ đức tin yếu kém của anh chị em chúng ta.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB