(Đn 3:14-20.24-25.28; Ga 8:31-42)
Câu chuyện về ba thanh niên trong bài đọc 1 hôm nay đáng cho chúng ta học hỏi. Họ là những người đứng vững trong đức tin của mình dù cho phải thiệt thân. Điều làm chúng ta ngạc nhiên và bị thách đố là câu trả lời của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô với vua Na-bu-cô-đô-nô-xo [ước gì câu trả lời của họ cũng là của mỗi người chúng ta khi chúng ta chọn lựa giữa tôn thờ Thiên Chúa hay ngẫu tượng tiền tài và danh vọng thế gian]:
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo: “Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có đúng như vậy không? Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm không? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?” (Đn 14-15).
Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” (Đn 3:16-18).
Nếu ở trong trường hợp của ba thanh niên này, chúng ta có kiên định trong đức tin của mình vào Thiên Chúa như họ không? Nói cách khác, chúng ta có đứng vững trong đức tin nếu chúng ta nghi ngờ không biết Thiên Chúa có giải thoát mình khỏi khó khăn và đau khổ không? Chính đời sống kiên định trong đức tin của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô mà những người không tin vào Thiên Chúa phải thốt lên những lời tôn vinh Ngài: “Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ” (Đn 3:28). Cũng vậy, chính cuộc sống trung thành với Thiên Chúa của chúng ta dù phải đối diện với khó khăn và thử thách, người khác sẽ nhận ra vinh quang và sức mạnh của Thiên Chúa đang tỏ hiện trong cuộc đời của chúng ta. Những người kiên định trong đức tin vào Thiên Chúa và không tôn thờ ngẫu tượng là những người tự do nhất.
Chúng ta là những người tự do hay nô lệ? Tự do là điều ai trong chúng ta cũng mong muốn. Ngay cả những người sống trong đời sống thánh hiến, những người đã khấn lời khấn vâng phục cũng chạy theo “phong trào đòi thêm tự do.” Nhiều người trong chúng ta hiểu tự do là không bị áp lực bên trong [bên trên] hoặc bên ngoài nào can thiệp vào những gì mình muốn có và muốn làm hoặc muốn là. Có hai loại tự do: tự do khỏi và tự do cho. Nhiều khi chúng ta có “tự do khỏi,” nhưng chúng ta lại không có “tự do cho.” Ví dụ, chúng ta có thể có “tự do khỏi” kiểm soát của người khác, nhưng điều đó không bảo đảm là chúng ta có “tự do cho điều tốt.” Đây chính là bối cảnh để giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta đâu là người mang lại cho chúng ta tự do đích thật: Tự do đích thật là tự do “khỏi tội” để rồi được “tự do sống cho Thiên Chúa và tha nhân.” Loại tự do này chỉ có được khi chúng ta đến với Chúa Giêsu, Đấng là sự thật: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32). Chúng ta chỉ biết sự thật khi chúng ta ở lại trong lời của Chúa Giêsu. Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết đâu là dấu hiệu để biết được một người là môn đệ của Chúa Giêsu, đó là ở lại trong lời của Ngài: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi” (Ga 8:31). Việc “ở lại” trong Tin Mừng của Thánh Gioan không đơn giản là lắng nghe, nhưng còn là “thấy,” “chạm đến” [cảm nếm] và cuối cùng là “công bố.” Theo cách nhìn này, “ở lại” là hành trình nội tâm hoá và công bố những gì mình đã nghe, đã thấy, đã cảm nghiệm trong tình yêu của Thiên Chúa. Theo các học giả Kinh Thánh, ý tưởng “ở lại trong lời của Ta” (x. Ga 6:56b; 14:21, 23-24; 15:4-10) xuất hiện trong bài Tin Mừng hôm nay là yếu tố quan trọng để giúp chúng ta biết hoàn cảnh của cộng đoàn Thánh Gioan trong thời gian đó. Câu “Chúa Giêsu nói với những người Do Thái tin Ngài” cho chúng ta hiểu rằng tác giả của Tin Mừng đang nghĩ về những Kitô hữu người Do Thái trong thời của tác giả phải đối diện với chọn lựa giữa việc “ở lại” như những người môn đệ của Chúa Giêsu hoặc từ bỏ như “những môn đệ” của Môsê (x. 9:27-28). Trong ngày sống, chúng ta cũng thường đối diện với những chọn lựa: làm môn đệ của Chúa Giêsu hay làm môn đệ của thế gian, làm theo ý Chúa hay làm theo ý của riêng mình. Chúng ta sẽ chọn gì khi chúng ta đối diện với những chọn lựa như thế?
Một điểm khác chúng ta có thể suy gẫm trong ngày sống là việc Chúa Giêsu liên kết sự thật và tự do: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32). Sống trong thế giới mà sự thật luôn bị bóp méo và bị giết chết, lời khẳng định này của Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta về việc phải luôn nói thật và sống thật nếu chúng ta muốn có được tự do đích thật. Ai trong chúng ta cũng phải công nhận rằng, nói thật và sống thật không phải là điều dễ dàng. Thật vậy, chúng ta cũng thường để cho sự dối trá chiến thắng chúng ta. Đôi khi chúng ta sợ mất mặt, sợ xấu hổ nên chúng ta không nói thật và sống thật. Không những thế, chúng ta còn biện minh cho việc không nói thật [nói dối] của chúng ta: “việc nói dối của mình không hại đến ai” hay “việc nói dối của mình bảo vệ được hạnh phúc cho gia đình [cộng đoàn].” Khi làm như thế, tức là chúng ta không sống theo sự thật, chúng ta đã làm nô lệ cho tội lỗi: “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8:34-35). Hãy dừng làm nô lệ cho tội! Hãy sống trong sự thật để được Chúa Giêsu giải thoát hầu sống một đời sống tự do cho yêu thương và tha thứ.
Điểm cuối cùng trong bài Tin Mừng đáng chúng ta suy gẫm là sự thay đổi thái độ của những người Do Thái “tin vào Chúa Giêsu.” Thánh Gioan dùng hình ảnh tương phản của “ở lại trong lời Tôi” (Ga 8:31) và “không ở lại trong lời Tôi” (x. Ga 8:37) để nói lên thay đổi này. Thái độ của người Do Thái thay đổi từ thiện cảm, tin vào Chúa Giêsu thành chống đối và tìm cách giết Ngài (x. Ga 31-39). Điều này cũng thường xảy ra trong ngày sống của chúng ta: chúng ta gần gũi và có thiện cảm với Chúa Giêsu vào ban sáng, nhưng ban chiều chúng ta lại xa lánh và giết chết Ngài với những tội lỗi của mình. Đây là lời mời gọi chúng ta nỗ lực luyện tập để có được một thái độ kiên định và trung thành trong lối sống yêu thương và phục vụ của mình. Nói cách khác, là luyện tập để sở hữu một “cá tính trước sau như một” trong đời sống yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB